Chỉ số kinh tế:
Ngày 19/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.148 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.941/26.355 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng: Nghị quyết 42 tạo cơ chế xử lý hiệu quả, kiểm soát chặt nợ xấu

Dương Công Chiến
Dương Công Chiến  - 
Sáng nay (14/4), Ủy ban Thường vụ Quốc hội khai mạc phiên họp thứ 10, cho ý kiến về báo cáo của Chính phủ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD).
aa
thong doc nguyen thi hong nghi quyet 42 tao co che xu ly hieu qua kiem soat chat no xau Gia hạn Nghị quyết 42 là giải pháp cấp bách
thong doc nguyen thi hong nghi quyet 42 tao co che xu ly hieu qua kiem soat chat no xau Đề xuất kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu

Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 42 tại phiên họp, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, trải qua gần 5 năm đi vào thực tiễn, các giải pháp nêu tại Nghị quyết số 42 đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu và góp phần quan trọng vào kết quả công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020, thể hiện định hướng, chính sách đúng đắn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, tạo niềm tin đối với hệ thống các TCTD nói riêng và toàn bộ xã hội nói chung đối với công tác xử lý nợ xấu trong nền kinh tế.

thong doc nguyen thi hong nghi quyet 42 tao co che xu ly hieu qua kiem soat chat no xau
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng báo cáo tại phiên họp thứ 10 Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Nợ xấu nội bảng được duy trì ở mức dưới 2%

Về tình hình nợ xấu và kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42, Thống đốc NHNN cho biết với sự nỗ lực, quyết tâm cao của ngành Ngân hàng, sự phối hợp của các bộ, ngành, địa phương, sau gần 5 năm thực hiện, Nghị quyết số 42 đã được triển khai nghiêm túc, đúng mục tiêu, định hướng và đạt được kết quả quan trọng.

Cụ thể về kết quả xử lý nợ xấu nội bảng, trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của NHNN cùng với sự chủ động, nỗ lực của các TCTD, nợ xấu của hệ thống các TCTD đã được xử lý, kiểm soát và tỷ lệ nợ xấu nội bảng được duy trì ở mức dưới 2%.

Về kết quả xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42, lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42; trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 196,9 nghìn tỷ đồng (chiếm 51,79% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý); xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết số 42 là 100,8 nghìn tỷ đồng (chiếm 26,51% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý); xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) là 82,5 nghìn tỷ đồng (chiếm 21,70% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý).

Tổng nợ xấu chưa xử lý xác định theo Nghị quyết số 42 của toàn hệ thống các TCTD đến 31/12/2021 là 412,7 nghìn tỷ đồng, giảm 17,21% so với thời điểm Nghị quyết số 42 có hiệu lực (15/8/2017).

Về kết quả mua bán, xử lý nợ xấu của VAMC, lũy kế từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực đến 31/12/2021, VAMC đã mua được 339 khoản nợ theo giá trị thị trường đối với 193 khách hàng với dư nợ gốc đạt 11.723 tỷ đồng và giá mua nợ đạt 11.822 tỷ đồng; thu hồi nợ đạt 120.738 tỷ đồng (bằng 66% tổng giá trị thu hồi nợ lũy kế từ năm 2013 đến 31/12/2021); tổ chức đấu giá thành công 22 tài sản với tổng giá trị trúng đấu giá đạt 2.516 tỷ đồng; đồng thời, VAMC đã thu giữ, nhận bàn giao một số tài sản bảo đảm (TSBĐ) có giá trị lớn, góp phần đẩy nhanh tiến độ xử lý các khoản nợ tại TCTD...

Đánh giá hiệu quả của Nghị quyết số 42 đối với công tác xử lý nợ xấu, Thống đốc NHNN cho biết, trước khi có Nghị quyết số 42, các biện pháp xử lý nợ xấu thông qua xử lý TSBĐ và khách hàng tự trả nợ còn chưa cao. Nợ xấu của toàn hệ thống các TCTD chủ yếu được xử lý bằng dự phòng rủi ro và bán nợ cho VAMC thanh toán bằng TPĐB. Khi áp dụng 2 biện pháp xử lý này, các khoản nợ xấu này vẫn phải được TCTD, VAMC theo dõi và sử dụng các biện pháp để xử lý, thu hồi triệt để. Kể từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, xử lý nợ xấu thông qua hình thức khách hàng tự trả nợ; xử lý, bán, phát mại TSBĐ; mua nợ theo giá trị thị trường... tăng cao.

Theo đó, lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, kết quả xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 thông qua hình thức khách hàng tự trả nợ là 148 nghìn tỷ đồng (chiếm 38,93% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý), cao hơn nhiều so với tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng trả trung bình năm từ 2012-2017 nợ/tổng nợ xấu là khoảng 22,8%).

Kết quả xử lý, bán, phát mại TSBĐ để thu hồi nợ của TCTD và VAMC đạt khoảng 77.195 tỷ đồng, chiếm 20,3% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã được xử lý (trong khi đó, lũy kế từ năm 2012-2017, kết quả xử lý TSBĐ để thu hồi nợ chỉ đạt 19.524 tỷ đồng).

Ngoài ra, Nghị quyết số 42 đã cho phép VAMC được mua các khoản nợ xấu đã sử dụng dự phòng rủi ro đang hạch toán ngoại bảng (trước đây VAMC chỉ được mua nợ xấu hạch toán nội bảng, dẫn đến hạn chế các khoản nợ xấu được mua bán theo giá thị trường) và chuyển đổi các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua bằng TPĐB sang mua theo giá trị thị trường. Sau khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, đến 31/12/2021, việc xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết số 42 đạt 100,8 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 26,51% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã được xử lý; VAMC đã mua 339 khoản nợ theo giá thị trường với giá mua nợ đạt 11.822 tỷ đồng.

Trên cơ sở đó, tổng số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý từ 15/8/2017 đến 31/12/2021 đạt trung bình khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn khoảng 2,15 nghìn tỷ đồng/tháng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình từ năm 2012-2017, hệ thống các TCTD xử lý được khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng/tháng).

Nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ

Mặc dù xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã đạt được kết quả tích cực như đã nêu, song Thống đốc cũng cho biết, thực tế vẫn còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc khi xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 cần tiếp tục có sự phối hợp của các bộ, ngành liên quan để xử lý.

Tại Báo cáo số 54/BC-CP đã nêu rõ 6 nhóm vấn đề khó khăn, vướng mắc khi áp dụng Nghị quyết số 42. Các vấn đề này cũng đã được Ủy ban Kinh tế Quốc hội đề cập tại Báo cáo đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết số 42. Qua rà soát cho thấy khó khăn, vướng mắc nêu trên xuất phát từ công tác thực thi, phối hợp triển khai, hướng dẫn từ các bộ, ngành và địa phương và chính quy định tại Nghị quyết số 42.

Cụ thể, các khó khăn, vướng mắc từ công tác thực thi, phối hợp triển khai, hướng dẫn từ các bộ, ngành và địa phương liên quan đến việc mua, bán nợ xấu của tổ chức mua, bán nợ xấu. Khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 42 quy định “Tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được thỏa thuận với TCTD quy định tại khoản 1 Điều này mua khoản nợ xấu với giá mua bằng giá trị định giá của tổ chức định giá độc lập…”.

Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ thể về các phương pháp thẩm định giá các khoản nợ. Việc thẩm định giá các khoản nợ xấu đang được các TCTD, doanh nghiệp có chức năng mua, bán nợ thuê các doanh nghiệp thẩm định giá vận dụng hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam để thực hiện. Do các phương pháp hướng dẫn tại Hệ thống Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam được áp dụng chung cho thẩm định giá các loại tài sản, nên khi thẩm định giá các khoản nợ xấu đôi khi việc vận dụng của các doanh nghiệp thẩm định giá là khác nhau, gây khó khăn cho các bên trong việc lựa chọn mức giá tham khảo làm cơ sở xác định mức giá khởi điểm trong giao dịch mua bán nợ.

Về quyền thu giữ TSBĐ, Điều 7, Nghị quyết số 42 quy định: “TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu...”.

Tuy nhiên trên thực tế, phương thức thu giữ TSBĐ để xử lý nợ xấu chỉ thành công khi khách hàng hợp tác, hoặc trong một số trường hợp nhất định như khách hàng đã bỏ trốn khỏi địa phương mà TSBĐ không có tranh chấp, TSBĐ là đất trống…, còn khi khách hàng không hợp tác bàn giao TSBĐ, chống đối khi tiến hành thu giữ nhưng sự phối hợp của các cơ quan hữu quan tại địa phương trong một số trường hợp chưa kịp thời (như xác minh thông tin khách hàng, hỗ trợ thu giữ TSBĐ)… cũng làm ảnh hưởng đến công tác xử lý thu hồi nợ xấu, dẫn đến việc thu giữ thường không đạt được kết quả.

Cùng với đó là một loạt khó khăn về cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng TSBĐ, việc xử lý các tài sản nằm trên hoặc nằm trong tài sản bị thu giữ, áp dụng thủ tục rút gọn (Điều 8 Nghị quyết số 42), thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ (Điều 12 Nghị quyết số 42), việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự (Điều 14 Nghị quyết số 42)...

Ngoài ra là những khó khăn, vướng mắc từ chính quy định tại Nghị quyết số 42. Cụ thể, về thỏa thuận thu giữ trong hợp đồng bảo đảm, Điều 7 Nghị quyết số 42 quy định: “Tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền thu giữ TSBĐ…”.

Tuy nhiên, các hợp đồng bảo đảm được ký kết trước thời điểm Nghị quyết số 42 có hiệu lực đều không quy định trực tiếp nội dung này (vì tại thời điểm hợp đồng được ký kết thì Nghị định 163/2006/NĐ-CP không quy định nội dung này). Do vậy, để đủ điều kiện áp dụng quyền thu giữ TSBĐ theo quy định trên, các TCTD phải đàm phán lại với bên vay/bên bảo đảm để ký lại hợp đồng bảo đảm có điều khoản thu giữ. Nhưng trong nhiều trường hợp, khách hàng thường không hợp tác (không ký lại nội dung điều chỉnh hợp đồng bảo đảm có điều khoản thu giữ), vì vậy các TCTD rất khó để thực hiện việc thu giữ TSBĐ theo Điều 7 Nghị quyết số 42.

Về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn, hiện nay, quy định tại Nghị quyết số 42 chỉ áp dụng thủ tục rút gọn đối với tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ, tranh chấp về quyền xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu của TCTD, VAMC mà chưa quy định được áp dụng thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp hợp đồng tín dụng của các TCTD với khách hàng vay. Trong khi đó, các tranh chấp của các khoản nợ xấu tại các TCTD hầu hết là các tranh chấp về hợp đồng tín dụng. Do đó, việc không quy định thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp về hợp đồng tín dụng gây rất nhiều khó khăn, hạn chế cho các TCTD trong việc xử lý nợ xấu…

Đề xuất kéo dài Nghị quyết 42, hướng tới ban hành Luật xử lý nợ xấu

Cũng theo Thống đốc NHNN, Nghị quyết số 42 là Nghị quyết thí điểm nên hiệu lực chỉ kéo dài 5 năm và đến ngày 15/8/2022, Nghị quyết số 42 sẽ hết hiệu lực thi hành. Khi hết hiệu lực thi hành, toàn bộ cơ chế về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đang được thực hiện sẽ chấm dứt, việc xử lý nợ xấu của TCTD sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan, không được ưu tiên áp dụng một số chính sách được quy định tại Nghị quyết số 42.

Điều này sẽ tác động lớn đến quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD, VAMC, cũng như quá trình cơ cấu lại TCTD, đặc biệt trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 nêu trên; đồng thời, sẽ không khuyến khích, huy động được các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia cơ cấu lại các TCTD. Việc gián đoạn, thiếu hụt cơ chế, chính sách khuyến khích để hỗ trợ TCTD, VAMC xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ cũng sẽ kéo dài quá trình xử lý nợ xấu.

Bên cạnh đó, các khó khăn, vướng mắc, bất cập, xung đột pháp lý giữa các văn bản quy phạm pháp luật ngành Ngân hàng với các văn bản quy phạm pháp luật khác (đặc biệt liên quan đến xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu) không được kịp thời tháo gỡ sẽ ảnh hưởng lớn đến tiến trình xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD, đặc biệt ảnh hưởng đến quá trình xử lý TCTD yếu kém.

Do đó, để tiếp tục nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và để có thêm thời gian kiểm chứng thực tiễn chính sách, giải pháp tại Nghị quyết số 42 nhằm nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, TSBĐ trong thời gian tới, Chính phủ đề xuất Quốc hội hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, TSBĐ, xây dựng Luật xử lý nợ xấu của các TCTD trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện các quy định của Nghị quyết số 42 nhằm tạo hành lang pháp lý ổn định, bền vững cho việc xử lý nợ xấu của các TCTD. Kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42 trong giai đoạn 2022-2025.

Để công tác xử lý nợ xấu được triển khai có hiệu quả trên thực tế, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý xấu nói chung và xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 nói riêng, Chính phủ đề xuất Quốc hội tiếp tục quan tâm, hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu theo quy định tại Nghị quyết số 42 nói riêng thông qua việc quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hằng năm của đất nước; xem xét đến khía cạnh xử lý nợ xấu khi quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, đặc biệt là quy định liên quan đến thuế (bao gồm việc thực hiện nghĩa vụ thuế trong quá trình xử lý TSBĐ khi thu hồi nợ xấu của các TCTD).

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đề nghị Quốc hội chỉ đạo Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo Tòa án nhân dân các cấp về việc triển khai thi hành quy định về thủ tục rút gọn theo quy định pháp luật để giải quyết nhanh chóng yêu cầu khởi kiện theo quy định của Nghị quyết số 42 và Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP; phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, cơ quan thi hành án sớm có văn bản chỉ đạo về việc thực hiện quy định về hoàn trả các TSBĐ là vật chứng của vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ quy định tại Nghị quyết số 42; phối hợp với cơ quan thi hành án sớm xây dựng hệ thống dữ liệu liên quan đến các vụ việc đang được thụ lý giải quyết và cho phép các TCTD được tra cứu, trích xuất.

Dương Công Chiến

Tin liên quan

Tin khác

Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Từ chủ trương đến hiện thực - Kỳ II

Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Từ chủ trương đến hiện thực - Kỳ II

Thị trường phân hóa mạnh năm 2026: Nhận diện nhóm cổ phiếu còn động lực tăng giá

Thị trường phân hóa mạnh năm 2026: Nhận diện nhóm cổ phiếu còn động lực tăng giá

Bước vào năm 2026, thị trường chứng khoán Việt Nam được kỳ vọng tiếp tục duy trì xu hướng tích cực, dù bối cảnh đã có nhiều thay đổi so với giai đoạn bùng nổ trước đó. Theo đánh giá của các chuyên gia phân tích, đây không còn là chu kỳ tăng trưởng “dễ ăn”, nhưng vẫn mở ra nhiều cơ hội đầu tư nếu nhà đầu tư lựa chọn đúng ngành và đúng doanh nghiệp có nền tảng tốt, chiến lược rõ ràng.
3 giai đoạn phát triển Trung tâm Tài chính quốc tế ở TP. Hồ Chí Minh

3 giai đoạn phát triển Trung tâm Tài chính quốc tế ở TP. Hồ Chí Minh

Trung tâm Tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh sẽ được triển khai theo ba giai đoạn và gắn chặt với lộ trình cải cách thị trường vốn, từ hạ tầng thanh toán, bù trừ, đến chuẩn hóa thông tin doanh nghiệp và mở rộng không gian cho các sản phẩm tài chính phái sinh.
Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Từ chủ trương đến hiện thực - Kỳ I

Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Từ chủ trương đến hiện thực - Kỳ I

Sau một năm tăng mạnh, thị trường chứng khoán cần điều gì để đi tiếp?

Sau một năm tăng mạnh, thị trường chứng khoán cần điều gì để đi tiếp?

Sau một năm 2025 tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường chứng khoán Việt Nam, năm 2026 được dự báo là giai đoạn điều chỉnh nhịp độ để hướng tới sự bền vững. Trên nền tảng đó, PGS.TS. Võ Đình Trí - Giảng viên Trường IPAG Business School Paris (Pháp) cho rằng, chiến lược đầu tư hiệu quả không nằm ở việc chạy theo các nhịp sóng ngắn hạn, mà ở tư duy dài hạn, kỷ luật danh mục và khả năng thích ứng với sự luân chuyển giữa các nhóm ngành.
Thị trường bất động sản chăm sóc người cao tuổi: Dư địa lớn, thách thức không nhỏ

Thị trường bất động sản chăm sóc người cao tuổi: Dư địa lớn, thách thức không nhỏ

Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh, tạo lực đẩy mới cho thị trường bất động sản chăm sóc người cao tuổi – phân khúc giàu tiềm năng nhưng đòi hỏi tư duy phát triển dài hạn và năng lực vận hành chuyên biệt.
S&P 500 và Nasdaq hồi phục ấn tượng, nhà đầu tư lạc quan trở lại

S&P 500 và Nasdaq hồi phục ấn tượng, nhà đầu tư lạc quan trở lại

Phiên giao dịch ngày 19/12 (rạng sáng 20/12 theo giờ Việt Nam) đã khép lại bằng một bức tranh tích cực hiếm hoi sau nhiều phiên biến động mạnh. Phố Wall đồng loạt tăng điểm, đánh dấu ngày phục hồi thứ hai liên tiếp và gần như xóa sạch những tổn thất đã xuất hiện từ đầu tuần.
Hà Nội mở cánh cửa Olympic, kiến tạo đô thị thể thao tầm vóc quốc tế

Hà Nội mở cánh cửa Olympic, kiến tạo đô thị thể thao tầm vóc quốc tế

Ngày 19/12, Thủ đô Hà Nội chính thức khởi công Dự án đầu tư xây dựng Khu đô thị thể thao Olympic - siêu dự án có quy mô hơn 9.000 ha, tổng mức đầu tư trên 925.000 tỷ đồng. Công trình được kỳ vọng sẽ hình thành một không gian thể thao - đô thị hiện đại, mang tầm khu vực và quốc tế, tạo động lực phát triển mới cho Hà Nội và cả nước. Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và chỉ đạo tại buổi lễ.
Đường sắt đô thị số 5 mở trục kết nối chiến lược từ trung tâm Thủ đô tới Hòa Lạc

Đường sắt đô thị số 5 mở trục kết nối chiến lược từ trung tâm Thủ đô tới Hòa Lạc

Ngày 19/12, thành phố Hà Nội chính thức tổ chức Lễ khởi công Dự án đầu tư xây dựng đường sắt đô thị tuyến số 5, Văn Cao - Ngọc Khánh - Láng - Hòa Lạc. Với tổng mức đầu tư hơn 72 nghìn tỷ đồng, tuyến metro được kỳ vọng trở thành trục giao thông xương sống phía Tây, tạo động lực phát triển đô thị bền vững và hiện đại cho Thủ đô.
Nhà ở xã hội Tiên Dương - điểm tựa an cư mới phía Bắc Thủ đô

Nhà ở xã hội Tiên Dương - điểm tựa an cư mới phía Bắc Thủ đô

Ngày 19/12, UBND thành phố Hà Nội phối hợp với Công ty Cổ phần Vihoce Tiên Dương tổ chức Lễ khởi công Dự án đầu tư xây dựng Khu nhà ở xã hội Tiên Dương 1 (tên thương mại Tiên Dương Park City). Dự án là công trình có ý nghĩa xã hội sâu sắc, góp phần hiện thực hóa chủ trương phát triển nhà ở xã hội, chăm lo an sinh cho người dân, chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.