Tiết kiệm - nền tảng ổn định và phát triển quốc gia
Thực hành tiết kiệm từ truyền thống đến chiến lược quốc gia
PGS.TS. Chu Khánh Lân cho biết: Ở góc độ quốc gia, nếu nhìn vào lịch sử văn hóa thì ông cha ta thì việc thực hành tiết kiệm đã có từ lâu đời, qua các chất liệu văn học, thành ngữ như “Buôn tàu bán bè chẳng bằng ăn dè tiết kiệm”.
Sang thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2/1951) cũng đã khẳng định: “Chính sách tài chính là tăng thu bằng cách tăng gia sản xuất, giảm chi bằng cách tiết kiệm”.
Bước vào thời kỳ đổi mới, tư tưởng này cũng được kế thừa, phát triển theo hướng phù hợp hơn. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986): “thấu suốt trong kế hoạch hóa và các đòn bẩy kinh tế”, “dành vốn để tích lũy, mở rộng sản xuất”. Cùng với đó, nhiều Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tiết kiệm; nước ta đã ban hành Luật Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí; Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo từng giai đoạn.
![]() |
| PGS.TS. Chu Khánh Lân, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê - Ổn định tiền tệ phát biểu tại Tọa đàm |
Gần đây nhất, vào tháng 6/2025, Tổng bí thư Tô Lâm đã có bài viết “Thực hành tiết kiệm”, trong đó, người đứng đầu Đảng nhấn mạnh: “Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là điều cần làm trong cuộc sống từng cá nhân và toàn xã hội, là ‘hòn đá tảng’ góp phần xây dựng một xã hội văn minh, phát triển bền vững”.
Theo PGS.TS. Chu Khánh Lân, tiết kiệm có vai trò rất quan trọng, hành động đem lại sự phát triển của mỗi cá nhân, gia đình và đất nước, đồng thời còn giúp cho một quốc gia có khả năng chống chịu, hội nhập một cách bền vững.
Trên thế giới, một số quốc gia vượt qua được mức thu nhập trung bình như Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc họ có hệ số sử dụng vốn (ICOR) rất thấp chỉ từ 3,0 đến 3,5 nhưng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao chỉ trong một giai đoạn đến 15-16 năm nhờ vào việc tiết kiệm. Tuy nhiên, họ phải đầu tư rất hiệu quả thì hệ số ICOR mới thấp. Ngược lại, một số quốc gia không vượt qua được bẫy thu nhập trung bình như Thái Lan và Malaysia thì hệ số ICOR cao, số năm có tốc độ tăng trưởng cao lại không nhiều.
Tại Việt Nam, 30 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân chỉ khoảng 6,5%, tỷ lệ tiết kiệm GDP cũng không phải thấp là 29%, nhưng không được cao như các quốc gia phát triển. Trong khi đó, tỷ lệ đầu tư GDP khoảng 30%. “Một mặt là chênh lệch giữa hai chỉ số nhưng tốc độ tăng trưởng thấp hơn, tức câu chuyện ở đây không chỉ thực hành tiết kiệm để đầu tư mà phải làm như thế nào để hiệu quả”, ông Lân nhấn mạnh.
Tiết kiệm gắn với tài chính toàn diện
Cũng theo PGS.TS. Chu Khánh Lân, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến phát triển toàn diện, bao trùm. Gần đây Quyết định số 149/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 thì hệ thống các mục tiêu, giải pháp đã được ban hành, triển khai một cách nhất quán đồng bộ và hiệu quả. Trong đó, tiết kiệm là một trong các sản phẩm ngân hàng được cung ứng; ngược lại người dân, hộ gia đình, doanh nghiệp cần hiểu và có kiến thức kỹ năng quản lý tài chính, nâng cao hiểu biết về sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng. Từ đó Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra chỉ tiêu có ít nhất 25% - 30% người trưởng thành gửi tiết kiệm tại tổ chức tín dụng. Đối với hộ gia đình, cá nhân, tiết kiệm là yếu tố quan trọng giúp chi tiêu sinh hoạt và mua sắm hàng hóa lâu bền; tiếp cận hệ thống tài chính chính thức, tránh tín dụng đen; mở rộng và liên kết với nhiều sản phẩm, dịch vụ tài chính; giúp họ có kỹ năng quản lý tài chính cá nhân; cùng với đó là nâng cao năng lực chống chịu rủi ro trước các yếu tố bất lợi từ biến động kinh tế - xã hội.
Cũng liên quan đến Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, trong 5 năm vừa qua Nhà nước đã hoàn thiện thể chế đối với sản phẩm, dịch vụ tài chính trên tinh thần xác định công tác xây dựng và thi hành pháp luật là "đột phá của đột phá" trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
![]() |
| Người dân tin tưởng vào việc tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng |
Điều này được cụ thể hóa qua sự ra đời của Luật Các tổ chức tín dụng 2024; Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022; Luật Phòng chống rửa tiền; Nghị định số 52/2024/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định về thanh toán không dùng tiền mặt; Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát… Đồng thời, ở lĩnh vực có liên quan (Luật Căn cước, Luật Giao dịch điện tử, Nghị định về Định danh và xác thực điện tử… để các quy định pháp luật về sản phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng được triển khai hiệu quả. NHNN cũng tạo điều kiện để phát triển các tổ chức cung ứng và mạng lưới: Ngoài các tổ chức tín dụng, định chế tài chính chuyên biệt thì cũng xuất hiện nhiều các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, mạng lưới bưu chính viễn thông…
Để hiện thực hóa các mục tiêu trong Chiến lược, ngành Ngân hàng cũng phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ và ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để mọi đối tượng có thể tiếp cận từ người nghèo, người thu nhập thấp, người yếu thế đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa…
Về kết quả triển khai Chiến lược, về cơ bản 6 mục tiêu cụ thể đã đạt được bao gồm: Phát triển đa dạng tổ chức cung ứng, kênh phân phối, sản phẩm, dịch vụ tài chính; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, tăng cường đổi mới sáng tạo; Xây dựng hành lang pháp lý cạnh tranh bình đẳng, khuyến khích đổi mới sáng tạo; Hoàn thiện cơ sở hạ tầng tài chính; Phát triển hệ thống tổ chức, chương trình, dự án tài chính vi mô; Nâng cao hiểu biết tài chính; bảo vệ người tiêu dùng…
Đáng chú ý, liên quan đến vấn đề tiết kiệm gắn với tài chính toàn diện thì theo khảo sát của Cục Thống kê (Bộ Tài chính): tính đến quý III/2024 thì 68% người trưởng thành có tiết kiệm trong 12 tháng. Về mục đích tiết kiệm: 44% cho tuổi già (tăng theo độ tuổi; cao hơn ở thành thị); 31% cho giáo dục (tăng theo trình độ học vấn và thu nhập; cao hơn ở thành thị); chỉ có 13% cho đầu tư hoặc kinh doanh để đem lại hiệu quả, tức còn khá thấp.
Đối với hình thức tiết kiệm, khảo sát cho biết 47% giữ tại nhà (tăng theo thu nhập; cao hơn ở nông thôn); 33% gửi ngân hàng (tăng theo trình độ học vấn và thu nhập; cao hơn ở thành thị); 6% tiết kiệm không chính thức (cao hơn ở nông thôn); 0,4% đầu tư chứng khoán; 0,6% đầu tư vào quỹ hưu trí. Tức tiết kiệm chủ yếu vào hệ thống ngân hàng và tự thân, còn đầu tư vào thị trường tài chính còn thấp. Ngoài ra, hiểu biết về tiền gửi tại tổ chức tín dụng: 20% không biết; 45% có nghe đến hoặc có biết; 35% biết rõ, do đó vẫn còn nhiều dư địa để các ngân hàng khai thác. Bên cạnh đó, việc tin tưởng vào tổ chức tín dụng được cấp phép để gửi tiền hoặc sử dụng sản phẩm lên đến 86,2%, chứng tỏ đây là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy tiết kiệm tại các kênh chính thức.
Để thúc đẩy tiết kiệm thì vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo rất lớn, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê - Ổn định tiền tệ nhấn mạnh: Các Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đều khẳng định đây là công cụ chủ chốt để tạo sự đột phá không chỉ tổng thể nền kinh tế mà còn trong từng lĩnh vực - trong đó có hoạt động về thúc đẩy tài chính toàn diện.
Những nền tảng số có thể giúp người dân nâng cao hiểu biết về tiết kiệm nói chung và các sản phẩm ngân hàng. Qua đó hiện thực hóa các mục tiêu trong thúc đẩy tài chính toàn diện, phát triển bao trùm, công nghệ và dữ liệu cũng có thể góp phần xác định các đối tượng cần được giáo dục, nâng cao hiểu biết về tài chính, đặc biệt là những ai yếu thế, không có điều kiện tiếp cận các sản phẩm dịch vụ ngân hàng…
Tin liên quan
Tin khác
Để tránh phát sinh các khoản phí không cần thiết, nên rà soát và thu gọn số lượng tài khoản
Làm chủ “lớp học” Giáo dục tài chính tại nhà
Mastercard ra mắt giải pháp mới giúp ngăn chặn gian lận thanh toán quy mô lớn
Cách người trẻ xoay xở với ‘nguồn tiền linh hoạt trong 3 phút”
Tiết kiệm vi mô - nền tảng nâng cao khả năng tự chủ tài chính cho phụ nữ và cộng đồng yếu thế




