WB: Nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện được sự vững vàng
Chính sách tiền tệ có đóng góp quan trọng vào thành tựu của kinh tế Việt Nam 2019 | |
ADB nâng dự báo tăng trưởng của kinh tế Việt Nam |
Trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm, xuất khẩu của Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng |
Việt Nam vẫn tỏa nắng
Một loạt tổ chức nước ngoài gần đây như ADB, Standard Chartered… đã có điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng kinh tế 2019 của Việt Nam. Trong báo cáo “Điểm lại” mới nhất vừa công bố, WB cũng không nằm ngoài xu hướng này khi đã nâng dự báo tăng trưởng trong năm nay lên 6,8%, thay vì chỉ 6,6% đưa ra trong lần dự báo vào tháng 7/2019.
Theo báo cáo này, năm 2019 có thể được coi là một năm tương đối tốt đẹp cho nền kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh bất định tăng lên trên toàn cầu, Việt Nam chắc chắn vẫn nằm trong số những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất trên thế giới với tốc độ tăng trưởng GDP dự báo sẽ đạt khoảng 6,8%. Đây là mức tăng trưởng cao gần gấp ba lần so với tốc độ bình quân của thế giới (chỉ 2,6%), và cao hơn 1,2% so với bình quân ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương.
Tăng trưởng cao song hành cùng KTVM ổn định, lạm phát thấp, vị thế kinh tế đối ngoại được tăng cường, xuất nhập khẩu đã sắp sửa vượt mốc 500 tỷ USD dù cho môi trường thương mại toàn cầu ngày càng bất định… Đây là những dẫn chứng được ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam nêu ra để cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện được sự vững vàng, khả năng chống chịu ngày càng tốt hơn.
Theo ông Jacques Morisset - Chuyên gia kinh tế trưởng WB tại Việt Nam, kết quả nêu trên có được do nhiều yếu tố. Trong đó nổi lên là sự đóng góp của tăng trưởng xuất khẩu tốt và sức cầu trong nước cao của các DN và hộ gia đình. Về xuất khẩu, dù tăng trưởng đã chậm lại đáng kể so với cùng kỳ năm 2018, nhưng vẫn cao gấp gần bốn lần so với mức tăng bình quân toàn cầu. Việt Nam cũng tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài, với bình quân dòng vốn FDI cam kết đạt gần 3 tỷ USD mỗi tháng, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực chế biến chế tạo. Bên cạnh đó, tiêu dùng cá nhân của các hộ gia đình cũng là một yếu tố ngày càng quan trọng đóng góp cho tăng trưởng GDP, khi tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh và mức thu nhập tăng lên. Đầu tư của các DN khu vực tư nhân cũng tăng ở mức 17% so với cùng thời kỳ.
Trong khi đó, chính sách tài khóa và tiền tệ đều được duy trì thận trọng, qua đó giúp kiềm chế lạm phát ở mức thấp và nợ công tiếp tục giảm mạnh. Các chuyên gia WB ước tính, lạm phát cả năm 2019 sẽ chỉ ở mức 3%, trong khi tỷ lệ nợ công chỉ vào khoảng 56% GDP vào cuối năm 2019, từ mức 63,7% GDP năm 2016 (tức giảm trên 8% trong 3 năm).
Riêng về CSTT, báo cáo đánh giá điều hành CSTT tiếp tục được tiến hành thận trọng và thích hợp, trên cơ sở cân đối giữa mục tiêu tăng trưởng và ổn định KTVM. Cùng với đó, NHNN tiếp tục theo đuổi chính sách giảm tình trạng đôla hóa; cải thiện ổn định trong khu vực ngân hàng, thể hiện ở những tiến triển về giải quyết nợ xấu và tình hình lợi nhuận cải thiện. “Không chỉ tình hình nợ xấu được cải thiện mà nợ xấu tiềm ẩn của các DNNN và nợ ngoại bảng cũng có tiến triển. Các biện pháp chủ động, như thu hồi và bán tài sản thế chấp, tái cơ cấu nợ nương theo biến động chu kỳ, bán nợ xấu… đã góp phần đem lại những kết quả tích cực trên”, báo cáo của WB cho biết.
Những rủi ro và thách thức cần vượt qua
Ông Jacques Morisset cho biết, với những kết quả đã đạt được, triển vọng trong trung hạn của Việt Nam vẫn tích cực. Tuy nhiên, những cơn gió ngược và bất định bên ngoài sẽ có những tác động nhất định đến kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Lấy ví dụ tác động đối với xuất khẩu, chuyên gia này cho rằng: “Dù Việt Nam tiếp tục đạt kết quả xuất khẩu ngoạn mục, nhưng không tránh khỏi tác động do sức cầu bên ngoài yếu đi và môi trường bất định trên toàn cầu”. Thực tế tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chững lại phần nào trong năm 2019 có nguyên nhân chính là nhu cầu bên ngoài giảm đi như đề cập ở trên.
Tốc độ tăng xuất khẩu dự báo giảm cũng có thể khiến thặng dư tài khoản vãng lai dự kiến sẽ chững nhẹ. Tuy nhiên, dòng vốn FDI dự kiến vẫn ổn định ngay cả khi xu hướng chuyển dịch từ đầu tư theo dự án vào cơ sở sản xuất kinh doanh mới sang mua lại và sáp nhập vẫn tiếp diễn, một phần cho thấy nhà đầu tư nước ngoài ngày càng quan tâm đến thị trường Việt Nam. Là một nền kinh tế vẫn dựa nhiều vào xuất khẩu, WB dự báo tăng trưởng GDP theo giá so sánh dự kiến xoay quanh mức 6,5% trong giai đoạn 2020-2022, bám sát xu hướng sản lượng tiềm năng.
Tuy nhiên, các chuyên gia của WB cũng lưu ý, triển vọng trung hạn nêu trên vẫn có một số rủi ro theo hướng suy giảm. Nhìn từ trong nước, chậm trễ trong triển khai những cải cách cơ cấu có thể làm cho viễn cảnh tăng trưởng trung hạn trở nên xấu đi. Trong khi đó nhìn từ bên ngoài, tranh chấp thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể tiếp tục ảnh hưởng xấu đến đà xuất khẩu trong ngắn hạn, chưa kể một nền kinh tế mở như Việt Nam cũng dễ chịu ảnh hưởng nếu kinh tế toàn cầu tiếp tục suy giảm, đặc biệt qua các kênh thương mại và đầu tư. Sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài cũng có thể “nguội” đi nếu nhiều nhà đầu tư có thể đình hoãn hoặc hủy dự án. “Nếu cả xuất khẩu và dòng vốn FDI đều chững lại, nền kinh tế Việt Nam có thể mất đi động lực tăng trưởng chính”, báo cáo cảnh báo.
Để đối phó với những rủi ro như vậy, về nguyên tắc các gói kích cầu trong nước có thể giúp giảm bớt tác động tiêu cực bên ngoài trong ngắn hạn, nhưng cần được theo dõi rất thận trọng vì mức nợ công vẫn tương đối cao (như theo phân tích bền vững nợ năm 2018 của IMF, nên duy trì ngưỡng nợ gần mức 55% GDP để đảm bảo bền vững tài khóa).
Do đó, Chính phủ nên tập trung phản ứng chính sách theo hướng tiếp tục cải thiện chất lượng chi tiêu. Đồng thời, Chính phủ nên ứng phó theo hướng đẩy nhanh sự phát triển của khu vực tư nhân trong nước. Điều này sẽ vừa một phần giúp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng, mặt khác giúp cân đối tốt hơn cho mô hình tăng trưởng hiện nay – khi vẫn chủ yếu dựa vào sức cầu bên ngoài.
Ngoài ra, như Báo cáo MTKD mới đây của WB cho thấy, mức độ cải cách về MTKD đã có dấu hiệu chững lại - ít nhất là trong so sánh với với các quốc gia khác, hay thực tế các DN vẫn phản ánh còn đối mặt với khó khăn trong tiếp cận tài chính, thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh… Đây cũng là những vấn đề mà WB khuyến nghị Việt Nam cần tiếp tục cải thiện trong thời gian tới.