30 năm cải cách ngân hàng: Hun đúc những thành công
Dấu ấn một cung đường | |
Thống đốc và những chuyến “vi hành” | |
Hành trình xây dựng niềm tin |
Hơn 32 năm trước, tôi bước chân ra khỏi cuộc sống sinh viên để mở cánh cửa nghề nghiệp đầu tiên của mình ở một chi điếm ngân hàng cấp huyện tại Thái Bình, thuộc hệ thống ngân hàng một cấp trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Chặng đường gắn bó với Ngành cho đến nay, tôi được chứng kiến, trải nghiệm từ đầu công cuộc cải cách khu vực ngân hàng, kể từ khi có Quyết định 218 cho phép thí điểm chuyển một số chi nhánh NHNN sang hạch toán kinh doanh, cho đến Nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng - văn bản đặt dấu mốc, đặt nền móng cho công cuộc cải cách khu vực ngân hàng.
Khu vực ngân hàng ngày càng nắm giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống tài chính của nền kinh tế |
Những thành tựu nổi bật
Để kiến tạo những thay đổi đó, trước tiên phải kể đến “lá bùa hộ mệnh” được đề cập trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cho phép đổi mới hệ thống ngân hàng. Từ đó cho đến nay, khuôn khổ thể chế tiền tệ cho hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng không ngừng được hoàn thiện, cập nhật dần theo thông lệ quốc tế.
Từ Nghị định 53/HĐBT đến việc ra đời được 2 Pháp lệnh năm 1990, rồi 2 Luật năm 1997, tiến tới hoàn thiện hơn một bước là 2 Luật năm 2010. Trí tuệ của toàn Ngành được hun đúc nên khung khổ pháp lý cho điều hành chính sách tiền tệ, cho hoạt động và quản trị rủi ro của hệ thống các TCTD.
Vai trò, vị thế của NHNN Việt Nam và cũng là NHTW của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được pháp điển hóa, phù hợp với tổ chức bộ máy của Chính phủ, với 3 sứ mạng cao cả là ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD; bảo đảm an toàn hệ thống thanh toán quốc gia.
Hành trình gần 30 năm qua, có lúc thăng, lúc trầm, trong quá trình thực hiện 3 sứ mạng của mình nhưng tựu chung lại, NHNN đã có những bước tiến dài, vươn lên tầm vóc của một NHTW hiện đại, luôn đi đầu nhạy bén trong điều hành chính sách tiền tệ.
Cải cách khu vực ngân hàng đã từng bước tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh; tách bạch giữa chức năng ngân hàng kinh doanh của NHTM với ngân hàng chính sách. Từng bước xóa bỏ bao cấp qua lãi suất, thực hiện theo nguyên tắc thị trường đó là tự do hóa lãi suất. Đây cũng là hành trình đấu tranh mạnh mẽ cả về tư tưởng, cả về nhận thức.
Đã có lúc chúng ta thả nổi được lãi suất, trả nó về cho thị trường quyết định như giai đoạn 2004-2007. Nhưng rồi lại phải ngập ngừng quay lại với câu chuyện “trần - sàn”, vì cần phải ổn định thị trường và rồi lại từng bước giảm dần việc can thiệp hành chính để đưa thị trường vận hành thanh thoát hơn theo cơ chế vốn có của nó.
Công cuộc tạo lập thị trường tiền tệ cũng ngày càng phát triển, mà ở đó công cụ Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) dần đa năng hơn, hữu dụng hơn, là “cửa sổ” để NHTW Việt Nam sử dụng phối hợp cùng các công cụ khác như dự trữ bắt buộc, lãi suất để điều tiết tiền tệ theo tín hiệu thị trường.
Tỷ giá được điều hành ngày một linh hoạt hơn. Cơ chế tỷ giá trung tâm đã được hình thành, thị trường ngoại tệ ổn định. Công cuộc chống đô la hóa có bước tiến dài, tiền gửi ngoại tệ/M2 còn trên dưới 10%. Thị trường vàng được quản lý ngày một hữu hiệu, ổn định, xóa được vàng hóa bảng cân đối của NHTM.
Khu vực ngân hàng ngày càng nắm giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống tài chính của nền kinh tế. Tổng tài sản khu vực này nắm giữ lên tới 6,87 triệu tỷ đồng (tháng 9/2015), nắm giữ 95% tài sản của khu vực tài chính, bằng 160% GDP. Dư nợ tín dụng hiện bằng khoảng 114% GDP, nguồn vốn huy động khoảng trên 100% GDP. Dự trữ ngoại hối nhà nước đạt mức cao kỷ lục khoảng 40 tỷ USD, góp phần củng cố niềm tin về khả năng thanh toán của quốc gia. Chỉ số xếp hạng tín nhiệm quốc gia được tăng lên, góp phần tiết giảm chi phí tài chính khi Chính phủ phát hành trái phiếu quốc tế.
Khuôn khổ giám sát và bộ máy giám sát (cơ quan thanh tra giám sát chuyên ngành) đã có bước tiến đáng kể trong giám sát an toàn khu vực ngân hàng. Hỗ trợ hệ thống thanh toán của nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển và hiện đại: giảm dần tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt; công nghệ thanh toán qua ngân hàng ngày một cập nhật theo trình độ tiên tiến trên thế giới, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng - hệ thống thanh toán xương sống của quốc gia đã vận hành hiệu quả… thanh toán L/C qua mạng SWITF bảo đảm uy tín.
Hệ thống công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ: 100% các NHTM đã quản lý dữ liệu tập trung Core Banking, phát triển Internet Banking; Home Banking, hệ thống 15 ngàn máy ATM, thanh toán POS; hệ thống thông Tin quản lý MIS; 68 triệu thẻ, 46 triệu tài khoản cá nhân nói lên khả năng tiếp cận dịch vụ, tiện ích ngân hàng của dân cư đã được cải thiện rất nhiều so ngày đầu cải cách khu vực ngân hàng…
Thách thức và giải pháp
Tuy nhiên, quá trình theo đuổi mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát của NHNN luôn hiện hữu những tác động không thuận chiều của nhiều yếu tố như: lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý; chính sách đầu tư còn dàn trải, kém hiệu quả; nợ công gia tăng càng tạo áp lực mạnh mẽ lên chính sách tiền tệ; thách thức từ những rủi ro tài chính toàn cầu, chủ động phá giá tiền tệ của NHTW các nước, trong khi Fed lại phát tín hiệu gia tăng lãi suất… Ứng phó với những thách thức nhiều chiều này sẽ là áp lực lớn cho NHNN.
Cùng lúc đó, cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam phát triển lệch vai, hệ thống ngân hàng bị trao trọng trách quá lớn, tập trung lo vốn cho nền kinh tế. Điều này tồn tại ngay cả trong tư duy đến cung cách điều hành. Trong khi, nợ xấu và sở hữu chéo được dồn tích lại qua nhiều năm mới được xử lý một bước. Những hệ lụy của nó được cho là có thể làm suy giảm chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng, đang là thách thức lớn đối với sự phát triển của cả hệ thống tài chính và nền kinh tế.
Năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành của các NHTM có chỗ còn yếu. Khung khổ chính sách quản trị rủi ro hệ thống ngân hàng chưa cập nhật thông lệ tốt nhất. Khi chúng ta đã hội nhập sâu vào cộng đồng tài chính quốc tế, nhưng chuẩn mực hoạt động theo Basel II cũng mới khởi động theo mục tiêu đến 2018 sẽ có khoảng 10 NHTM được áp theo chuẩn mực này. Điều này cũng cho thấy tính dễ tổn thương của hệ thống ngân hàng Việt Nam trước những cơn bão tài chính của thế giới cần được đặc biệt quan tâm.
Đồng thời, khuôn khổ chính sách giám sát và sự phối kết hợp của các kênh giám sát hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng còn khuyết thiếu, chưa đồng bộ, chưa theo kịp sự phát triển của thị trường dẫn đến một số vụ việc rủi ro lớn cả về cán bộ và tiền vốn.
Trong bối cảnh đó, thực tế đòi hỏi cần có một số giải pháp quyết liệt và đồng bộ hơn.
Một là, khung khổ pháp lý cần minh bạch, rõ ràng hơn về tính độc lập của NHTW trong việc ra quyết định; phối kết hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Hai là, cần những giải pháp phát triển đồng bộ thị trường vốn trong nước (thị trường chứng khoán, trái phiếu, liên ngân hàng, mua bán nợ).
Ba là, hoàn thiện khuôn khổ chính sách và hệ thống giám sát đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng, phối hợp xử lý khủng hoảng đổ vỡ tài chính; phá sản các định chế tài chính yếu kém; giám sát bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, nhóm giải pháp thứ tư là, tập trung nguồn lực, có lộ trình khoảng 5 năm tới phải thực hiện xử lý dứt điểm nợ xấu và tình trạng sở hữu chéo.
Năm là, tăng cường năng lực của các định chế trong hệ thống ngân hàng về vốn; khung quản trị doanh nghiệp; khung quản trị rủi ro; khung năng lực cán bộ chuẩn hóa các chứng chỉ hành nghề trong lĩnh vực ngân hàng.
Sáu là, hoàn thiện quy định về chuẩn mực kế toán theo thông lệ quốc tế, về kiểm toán, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro…
Bảy là, xác định đúng vai trò của công nghệ thông tin, có chiến lược, chính sách quản lý thống nhất việc ứng dụng IT trong toàn Ngành, xếp rủi ro về IT là rủi ro riêng, tách ra khỏi rủi ro vận hành nói chung của ngân hàng.
Hai nhóm giải pháp cuối cùng là, tăng cường khả năng nghiên cứu, phân tích dự báo của NHTW cũng như chia sẻ phối hợp thông tin này với các bộ ngành, với các cơ quan giám sát toàn bộ khu vực tài chính như Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước; chủ động phối kết hợp và tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật của các định chế tài chính quốc tế để hoàn thiện thể chế tiền tệ và phát triển lành mạnh hệ thống ngân hàng cũng như hệ thống tài chính Việt Nam.