Ba năm thực hiện các Nghị quyết 19: Hiệu ứng và thách thức
Chính phủ ban hành Nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh | |
Thách thức mới đi cùng cơ hội lớn | |
Vì nhân dân, vì doanh nghiệp |
Môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2016 theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, tăng 9 bậc (từ vị trí 91/189 lên 82/190) với 5 chỉ số tăng hạng. Đây là mức cải thiện thứ hạng nhiều nhất kể từ năm 2008. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu ngang bằng các nước ASEAN 4 đòi hỏi phải có sự nỗ lực cải cách mạnh mẽ và toàn diện cả về quy mô và cường độ trên tất cả các lĩnh vực.
Đó là tinh thần chỉ đạo xuyên suốt trong Nghị quyết 19-2017/NQ-CP vừa được Chính phủ ban hành ngày 6/2/2017.
NHNN đang phối hợp với đối tác nước ngoài để xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng doanh nghiệp mới đạt chuẩn quốc tế |
Lan toả lợi ích ra nền kinh tế
Trong 3 năm liền (2014 – 2016), mỗi năm Chính phủ đều ban hành một Nghị quyết mang số 19 về việc thực hiện các nhiệm vụ giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc cải thiện các chỉ số này đối với sự phát triển của quốc gia.
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về kết quả thực hiện các Nghị quyết 19 cho thấy có sự chuyển biến tích cực, năm sau tăng hơn năm trước về số lượng các bộ, ngành và các địa phương tham gia triển khai thực hiện.
Nếu như trong năm đầu tiên, chỉ có 5 bộ tham gia cùng TP. Hồ Chí Minh, thì đến 2 Nghị quyết sau, đặc biệt là năm 2016, nhiều bộ, ngành đã quan tâm hơn tới việc thực hiện Nghị quyết, không còn thái độ thờ ơ, đối phó. Trong đó, NHNN đã cùng các bộ và cơ quan: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Bảo hiểm xã hội, Tập đoàn Điện lực và VCCI xây dựng được kế hoạch hành động đúng phương pháp, đáp ứng mục tiêu Nghị quyết.
Những nỗ lực ấy đã được ghi nhận trong các chỉ số cải thiện môi trường kinh doanh như: Bảo vệ nhà đầu tư tăng hạng nhiều nhất với 31 bậc (từ 118 lên vị trí 87); Giao dịch thương mại qua biên giới đạt mức tăng 15 bậc (từ vị trí 108 lên vị trí 93); Nộp thuế và bảo hiểm xã hội tăng 11 bậc, thời gian được rút ngắn 230 giờ (từ 770 giờ xuống còn 540 giờ); Giải quyết phá sản doanh nghiệp tăng 1 bậc (từ vị trí 126 lên thứ hạng 125), nhưng không phải nhờ những thay đổi, cải cách.
Riêng ngành Ngân hàng, theo báo cáo đánh giá môi trường kinh doanh năm 2017 của WB, tỷ lệ độ bao phủ thông tin tín dụng của Trung tâm TTTD công là 41,8%, cao hơn nhiều so với trung bình của các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương (14,7%) và cao hơn trung bình của các nước thu nhập cao OECD (12,1%). Xét về chỉ tiêu tiếp cận tín dụng của ngành ngân hàng (Getting credit), Việt Nam xếp hạng 32/190 và đứng thứ 3 trong nhóm ASEAN.
Chỉ số chiều sâu thông tin tín dụng của Việt Nam đạt 7/8 điểm là khá cao so với các nước trong khu vực, cao hơn trung bình của các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương (4,2) và cao hơn trung bình của các nước thu nhập cao OECD (6,5).
Còn theo công bố của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam xếp hạng 83/138 quốc gia, cải thiện 5 bậc so với kỳ báo cáo 2015-2016 (hạng 88). Nếu theo cách đánh giá của WB, “Tiếp cận tín dụng” của Việt Nam hiện xếp hạng 32/190, đứng thứ 3 trong ASEAN, chỉ sau Singapore và Malaysia (cùng xếp hạng 20/190).
Tuy nhiên, báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng chỉ ra, những mục tiêu lớn đề ra trong các Nghị quyết 19 vẫn còn xa. Ngay cả Nghị quyết 19-2016/NQ-CP được đánh giá là thực hiện được tốt nhất trong các năm cũng chỉ có 35 giải pháp được thực hiện và có kết quả (chiếm 42,2%); 20 giải pháp đã được thực hiện, nhưng chưa có kết quả rõ ràng (24,1%) và 28 giải pháp chưa được thực hiện hoặc chưa có thông tin (chiếm 33,7%).
Môi trường kinh doanh của Việt Nam vì thế dù đã được cải thiện trên hầu hết các chỉ tiêu, đứng trên Philippines, nhưng chưa đạt trung bình ASEAN 4, thậm chí một số chỉ tiêu chưa đạt trung bình ASEAN 6 như kỳ vọng đã đặt ra. Bên cạnh 5/10 chỉ số tăng hạng, 5 chỉ số khác của Việt Nam lại giảm bậc. Như chỉ số khởi sự kinh doanh giảm 10 bậc và ở thứ hạng thấp (từ vị trí 111 xuống vị trí 121), là chỉ số có mức giảm bậc nhiều nhất. Chỉ số Cấp phép xây dựng và các thủ tục liên quan, và Tiếp cận tín dụng (mỗi chỉ số giảm 3 bậc)…
Các chỉ số giảm bậc một mặt là do Việt Nam không có cải cách nào trong những lĩnh vực này trong thời gian qua, mặt khác là do các nước khác tiến nhanh hơn (như Brunei tăng 25 bậc, Indonesia tăng 15 bậc). Vì thế, mục tiêu đạt trung bình ASEAN 4 của Việt Nam trở nên khó khăn hơn.
Ngoài ra, theo đánh giá Năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới thì năm 2016, thứ hạng của Việt Nam là 60/138, giảm 4 bậc so với năm 2015 (56/140). Thứ hạng này thấp hơn hầu hết các nước ASEAN (sau 6 nước), chỉ đứng trên Lào và Cam-pu-chia. Rõ ràng vẫn còn khoảng cách khá xa giữa mục tiêu và việc thực thi Nghị quyết.
Cần sự chung tay mạnh mẽ hơn
Để thúc đẩy mạnh mẽ việc cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao hiệu quả, chất lượng các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 19-2017/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh năm 2017, định hướng 2020. Trong đó, phấn đấu đến hết 2017, các chỉ tiêu môi trường kinh doanh đạt trung bình của nhóm nước ASEAN 4. Đến năm 2020, đạt điểm số trung bình của nhóm nước ASEAN 4 trên các nhóm chỉ số về năng lực cạnh tranh (theo đánh giá của WEF).
Nghị quyết cũng đã bổ sung thêm mục tiêu đến năm 2020, các chỉ số Đổi mới sáng tạo theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) sẽ đạt mức trung bình của ASEAN 5; Chính phủ điện tử theo tiếp cận của Liên Hợp quốc đến hết năm 2017 xếp hạng thứ 80, đến năm 2020 đạt trung bình ASEAN 5 về điểm số và thứ hạng tối thiểu 70 trên thế giới.
Đồng thời hướng đến những giải pháp tiếp tục hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, phấn đấu đạt mức 1 triệu DN vào năm 2020, trong đó tối thiểu là 0,5% DN khởi nghiệp sáng tạo. Nghị quyết cũng quy rõ trách nhiệm của từng bộ, cơ quan, địa phương đối với từng chỉ số; Tăng cường kỷ luật, và nâng cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc thực hiện Nghị quyết; Xử lý nghiêm cơ quan, đơn vị cán bộ công chức và người đứng đầu thiếu trách nhiệm, gây phiền hà cho dân.
Riêng với ngành Ngân hàng, Nghị quyết vẫn đặt mục tiêu đưa chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam vào nhóm 30 nước của Doing Business theo cách tiếp cận của WB; Chỉ tiêu tạo thuận lợi trong tiếp cận vốn vay (đánh giá theo cách tiếp cận của WEF), phấn đấu đến hết năm 2020 thuộc nhóm 40 nước đứng đầu.
Những nhiệm vụ này đã và đang được NHNN xây dựng và thực hiện từ trong năm 2016. Cụ thể như NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1726/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Hiện, NHNN đang khẩn trương xây dựng Đề án xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ tài chính cung cấp cho DN nhằm nâng cao mức độ sẵn có và đầy đủ về dịch vụ tài chính của Việt Nam, góp phần cải thiện Chỉ số này, phấn đấu thuộc nhóm 50 nước đứng đầu, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong những năm tới.
Đối với xếp hạng “Chỉ số tiếp cận tín dụng”, NHNN đang phối hợp với đối tác nước ngoài để xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng DN mới đạt chuẩn quốc tế (dự kiến sẽ hoàn thành và đưa vào vận hành trong quý I/2017). Trong năm 2017, NHNN sẽ triển khai nhân rộng cổng thông tin kết nối khách hàng vay tại tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước đối với cả khách hàng cá nhân và DN.
Tuy nhiên, để cán đích chỉ tiêu “tiếp cận tín dụng” được xếp hạng thứ 30 cũng là một thách thức, bởi Chỉ số chiều sâu thông tin tín dụng đã đạt điểm gần tuyệt đối (7/8) nhờ những nỗ lực cải cách của NHNN. Cấu phần này còn rất ít dư địa để tăng điểm, nhất là khi 1/8 điểm còn lại phụ thuộc vào sự phối hợp với các bộ, ngành khác, cụ thể là với Bộ Công Thương và Bộ Thông tin-Truyền thông về việc trao đổi thông tin. Hơn nữa, sự cải thiện của các nước khác dễ làm Việt Nam bị tụt hạng. Cấu phần chỉ số quyền pháp lý đạt 7/12 nhưng khó có thể cải thiện ngay.
Theo đánh giá của WB, Việt Nam đạt yêu cầu 7/12 câu hỏi điều tra về hệ thống pháp lý có liên quan đến pháp luật về phá sản và tài sản bảo đảm. Các cấu phần chưa đạt điểm tối đa của chỉ số này là các nội dung thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ Tư pháp và các bộ, ngành liên quan. Trong cấu phần này, WB chỉ công nhận những cải cách pháp lý tại các văn bản quy phạm có hiệu lực cao nhất của Chính phủ, Quốc hội, mà không công nhận những cải cách pháp lý của cấp bộ, ngành. Điều này cũng là một hạn chế khi ở Việt Nam, các văn bản quy phạm cấp bộ (chẳng hạn Thông tư) mới có tính hướng dẫn cụ thể, chi tiết và có nhiều cải cách trong cải thiện môi trường kinh doanh.