Bế tắc vốn các đại dự án hạ tầng
Đừng để BOT là gánh nặng của dân | |
Thu phí BOT: Đừng vì chút lợi ích mà thả nổi | |
Giám sát các dự án BOT: Bảo đảm hài hòa lợi ích |
Việc đội vốn hơn 5.000 tỷ đồng đối với “tiểu” dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng sân bay Long Thành chưa bớt nóng trên nghị trường Quốc hội, thì con số trên 300.000 tỷ đồng cho dự án đường cao tốc Bắc - Nam lại tiếp tục bồi thêm vào cơn khát vốn dài hạn cho các dự án hạ tầng giao thông chiến lược.
Để huy động vốn ngoài ngân sách, chỉ còn một cách là tiếp tục đi vay. Tuy nhiên nếu vay nước ngoài thì vướng trần nợ công, còn nếu vay trong nước thì buộc phải nới room đặc biệt cho các dự án hạ tầng chiến lược và rủi ro cho an ninh nguồn vốn.
Cần minh bạch hóa hoạt động thu phí ở các dự án BOT để đảm bảo thu hồi vốn |
“Bóng lửa vốn” chuyền sang NH
Theo tính toán của Bộ Giao thông - Vận tải, đối với dự án đường cao tốc Bắc - Nam, nếu Quốc hội thống nhất thông qua đầu tư theo phương án quy mô tối thiểu 4 làn xe hạn chế và giải phóng mặt bằng quy mô hoàn chỉnh thì tổng kinh phí đầu tư cho dự án này ước khoảng trên 229,8 ngàn tỷ đồng. Trong số này chủ đầu tư sẽ phải huy động khoảng gần 136,9 ngàn tỷ đồng, số còn lại (trên 93,5 ngàn tỷ đồng, chiếm 40,7%) sẽ do ngân sách bố trí từ nguồn trái phiếu Chính phủ.
Ông Nguyễn Nhật, Thứ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải cho rằng so với các dự án cao tốc đã đầu tư trước đây thì tỷ lệ vốn đầu tư của ngân sách cho dự án cao tốc Bắc - Nam thấp hơn khoảng 12,1% vì hiện nay nguồn ngân sách rất hạn chế, nợ công ở mức cao. Ông Nhật cho rằng nếu ngân sách đáp ứng được mức này “thì việc kêu gọi vốn ngoài ngân sách còn lại là có thể thực hiện được”.
Tuy nhiên, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, ngay cả khi tỷ lệ vốn ngân sách có giảm xuống như ở trên thì việc huy động vốn ngoài ngân sách cũng không hề dễ bởi thực chất áp lực vốn sẽ đè nặng lên vai hệ thống NH.
Ông Nghĩa cho rằng, điểm mới trong đề án cao tốc Bắc - Nam là đã đề xuất Chính phủ chuyển số tiền ngân sách 93,5 ngàn tỷ đồng từ hình thức cấp phát ODA sang cho vay. Điều này sẽ buộc các nhà đầu tư phải cân nhắc về lãi suất, tiến độ giải ngân và thời hạn trả nợ… Tuy nhiên, áp lực vốn sẽ đè nặng lên hệ thống NHTM. Bởi thực tế hiện nay, nếu 40,7% ngân sách được huy động từ trái phiếu Chính phủ thì các NHTM chính là khách hàng chính đóng góp nguồn huy động này (90% khối lượng trái phiếu được các NHTM mua). Trong khi đó hơn 136.000 tỷ đồng mà nhà đầu tư cần huy động thì thực tế họ cũng phải vay vốn chủ yếu từ các NHTM trong nước. Nếu cùng một lúc các NHTM gồng gánh cả hai nhu cầu này thì sẽ không còn vốn cho các dự án khác và nền kinh tế nói chung.
Cân nhắc đề xuất mở room tín dụng
Theo ông Đỗ Văn Sinh, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, hiện nay, Chính phủ đang giao cho NHNN nghiên cứu xem xét, nếu được thì mở thêm room cho vay đối với các dự án BOT để huy động vốn ngoài ngân sách cho các dự án hạ tầng lớn. Bởi hiện nay tỷ lệ cho vay đối với các dự án BOT được NHNN khống chế ở mức 4% tổng dư nợ toàn hệ thống, tuy nhiên room này đã kịch, các NHTM khó có thể cho vay tiếp.
Tuy nhiên, theo TS. Bùi Quang Tín, Đại học NH TP.HCM để đưa ra được quyết định có nên mở room cấp tín dụng đối với các dự án BOT hay không chắc chắn NHNN sẽ phải xem xét rất kỹ lưỡng. Bởi hiện nay, nhiều NHTM đã chạm trần tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn (50% theo Thông tư 06/2016), nếu mở thêm room sẽ ảnh hưởng đến chỉ số an toàn vốn.
Thêm vào đó, hiện nay nhiều dự án BOT chi phí thực tế để xây dựng thấp hơn chi phí dự toán, nên sau khi quyết toán thì số tiền dư ra là rất lớn. Điều này đã đẩy phí cho người dân và kéo dài thời gian hoàn vốn, làm cho chi phí nền kinh tế đẩy cao lên, sức cạnh tranh của DN giảm. Do vậy cần rà soát lại chuyện này thay vì phải tiếp tục đi vay.
Ngoài ra, từ góc độ NHTM thì không phải dự án BOT nào cũng có thể cho vay được mà phải thẩm định rất kỹ, nhất là khả năng thu hồi vốn. “Hiện nay các dự án toàn thu bằng tiền mặt thì làm sao các NH giám sát để thu hồi vốn. Cho nên các NHTM phải yêu cầu thu phí qua NH thì mới cho vay. Nếu không rủi ro nợ xấu sẽ rất lớn”, ông Tín chia sẻ.
Để tháo gỡ nút thắt vốn, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng sắp tới cơ chế cho chủ đầu tư vay vốn từ nước ngoài cần phải được cởi mở hơn. Bởi theo ông, hiện nay nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn cho DN tư nhân trong nước vay với lãi suất có thể thấp hơn so với vay từ các NH nước ngoài. Tuy nhiên nhà đầu tư trong nước phải liên doanh thành lập quỹ và quản lý quỹ đầu tư cùng với họ mà pháp lý cho những cơ chế liên kết này thì vẫn còn nhiều vướng mắc.
Ở góc độ khác, ông Nguyễn Xuân Thành, Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng bên cạnh việc phát hành trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho các dự án hạ tầng lớn thì Nhà nước cũng nên phát hành trái phiếu công trình để tài trợ cho phần tham gia của Nhà nước vào dự án. Theo đó, trái phiếu công trình được đảm bảo bằng giá trị quyền sử dụng đất gắn với dự án, chứ không phải đảm bảo bằng ngân sách Nhà nước. Sau khi dự án hoàn thành giá đất sẽ tăng lên và lúc đó sẽ đấu giá quyền sử dụng đất. Số tiền thu về sẽ dùng để hoàn trả nợ gốc và lãi của trái phiếu công trình.