Cần cơ chế kéo vốn ngoại, khơi vốn nội
Nhìn lại đầu tư hạ tầng hàng hải | |
Giao thông còn khát vốn | |
NHNN chủ trì đánh giá cụ thể nhu cầu vốn tín dụng cho các dự án PPP |
Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) vừa được UBTVQH tổ chức, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, do năng lực của nhiều chủ đầu tư yếu nên nguồn vốn đầu tư cho các dự án này vẫn chủ yếu phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, việc quá phụ thuộc này có thể sẽ gây rủi ro cho hệ thống ngân hàng…
BOT là hướng đi đúng đắn
Ông Thanh cho biết, giai đoạn 2011-2016, Bộ GTVT đã huy động khoảng 171.308 tỷ đồng, trong đó vốn BOT là 154.481 tỷ đồng/59 dự án, chiếm khoảng 90,2% (các dự án đường bộ 169.813 tỷ đồng/57 dự án). Đến nay, đã hoàn thành đưa vào vận hành khai thác 55 dự án BOT với tổng mức đầu tư 137.819 tỷ đồng (toàn bộ là lĩnh vực đường bộ).
Việc thực hiện các dự án giao thông đầu tư theo hình thức BOT thời gian qua đã có sự chuyển biến rõ rệt |
Nhìn một cách tổng thể, việc thực hiện các dự án giao thông đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT trong thời gian qua đã giúp cho diện mạo về hệ thống giao thông tại Việt Nam, đặc biệt là hệ thống đường, cầu có sự chuyển biến rõ rệt, tạo điểm nhấn cho sự phát triển của Việt Nam. Việc đưa vào khai thác các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT đã tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm quốc phòng - an ninh, hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm ùn tắc, tai nạn giao thông và trực tiếp làm tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, từ đó năng lực và chất lượng của hạ tầng giao thông Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
Đặc biệt, trong bối cảnh nguồn lực ngân sách nhà nước hạn chế và nguồn ODA thu hẹp dần thì việc huy động thông qua hình thức hợp đồng BOT là hướng đi đúng đắn để phát triển giao thông nói riêng, phát triển kinh tế nói chung, đồng thời giảm bớt gánh nặng của ngân sách nhà nước trong việc thực hiện chủ trương xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ cho nền kinh tế…
Thông qua đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, nhiều doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước có cơ hội tham gia thực hiện các dự án lớn, tiêu thụ một lượng lớn nguyên, nhiên vật liệu sản xuất trong nước, tạo ra hàng vạn công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, hàng trăm ngàn tỷ đồng vốn tín dụng ngân hàng đã được đưa vào nền kinh tế và chính những doanh nghiệp tham gia đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT có điều kiện trưởng thành, tăng năng lực cạnh tranh đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Cần giải pháp vốn tổng thể, tránh phụ thuộc ngân hàng
Theo quy định về tín dụng, các ngân hàng chỉ cho phép NĐT, DN vay vốn cho các dự án khi dự án có khả năng hoàn vốn. Tuy nhiên, theo ông Vũ Hồng Thanh, trong triển khai thực hiện các nguyên tắc này, có một số trường hợp ngân hàng lại dựa vào thông tin xác nhận trên Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư của dự án, trong khi đây chỉ là bản xác nhận thông tin đăng ký của NĐT. “Với đặc thù của các dự án giao thông đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT thường có vòng đời dự án dài tới 15 đến 20 năm, trong khi vốn ngân hàng chủ yếu là vốn ngắn hạn. Sự chênh lệch kỳ hạn này nếu công tác quản trị rủi ro của ngân hàng không tốt hoặc dự án không thu hồi vốn được theo kế hoạch thì rủi ro cho ngân hàng là rất lớn”, ông Thanh cảnh báo.
Hơn nữa, việc cấp tín dụng cho các dự án giao thông được đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT cũng tiềm ẩn rủi ro khi các dự án bị chậm tiến độ. Tính đến nay có 17 dự án bị chậm tiến độ với tổng số tiền cam kết cấp tín dụng là 18.260 tỷ đồng, dư nợ đến 31/12/2016 là 8.603 tỷ đồng. Việc thay đổi chính sách của Nhà nước trong việc giảm phí, điều chỉnh tăng phí giao thông đã ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu nợ tín dụng của các TCTD, tiềm ẩn rủi ro phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nhóm nợ khi nguồn thu nợ thấp hơn so với phương án tài chính được phê duyệt dự án
Để khắc phục những bất cập trên, UBTVQH đề nghị Chính phủ cần có giải pháp tháo gỡ các khó khăn đối với kênh huy động vốn trong nước, mở rộng kênh huy động vốn nước ngoài cho các dự án có quy mô lớn, dự án chậm tiến độ, khó có khả năng tiếp tục đầu tư; Nghiên cứu các giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường vốn theo hướng: các doanh nghiệp dự án phát hành trái phiếu doanh nghiệp hoặc trái phiếu dự án để huy động vốn...
Cùng với đó, Chính phủ cũng cần ban hành cơ chế chính sách cụ thể nhằm đẩy mạnh hợp tác với các nước, các tổ chức tài chính quốc tế để thu hút thêm nhiều nguồn vốn từ bên ngoài, trong đó đặc biệt chú trọng đến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, thu hút các đối tác nước ngoài tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, xây dựng chính sách, mở rộng thị trường.
UBTVQH đề xuất cần thực hiện thí điểm một số cơ chế chính sách theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế tại một số dự án thí điểm thu hút NĐT nước ngoài (như bảo lãnh doanh thu, bảo hiểm trách nhiệm của Chính phủ). Trên cơ sở đó đánh giá, hoàn thiện cơ chế chính sách để thu hút các NĐT nước ngoài và các TCTD nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; Tạo môi trường thuận lợi, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vào đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo đảm lợi ích hài hòa cho NĐT, không phân biệt thành phần kinh tế. Trường hợp chưa thực hiện cơ chế thí điểm để kêu gọi NĐT và ngân hàng nước ngoài, Chính phủ cần có giải pháp để tháo gỡ nguồn vốn tín dụng dài hạn trong nước để thực hiện các công trình quan trọng quốc gia.
Trong dài hạn, Chính phủ cần nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia, đó là trong quá trình lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tham khảo ý kiến từ các ngân hàng thương mại để xác định mức lãi suất vốn vay phù hợp với báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi để làm cơ sở đấu thầu lựa chọn NĐT. Trường hợp đấu thầu lựa chọn NĐT, thì mức lãi suất vốn vay quy định trong hợp đồng BOT phụ thuộc vào kết quả đấu thầu lựa chọn NĐT và kết quả đàm phán giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và NĐT.