Nhìn lại đầu tư hạ tầng hàng hải
Thống nhất chủ trương xây dựng Cảng Liên Chiểu theo hình thức PPP | |
Đầu tư xây dựng bến cảng tổng hợp Cái Mép | |
Khai trương tuyến hàng hải Hàn Quốc - Chu Lai |
Hút mạnh vốn ngoài ngân sách
Theo số liệu của Bộ Giao thông - Vận tải, tính đến thời điểm 2010, nguồn vốn ngân sách Nhà nước đã được tập trung để đầu tư, cải tạo, nâng cấp và hoàn thành 14 cảng tổng hợp quốc gia, tổng kinh phí khoảng 7.500 tỷ đồng. Về nguồn vốn ngoài ngân sách, trong giai đoạn vừa qua đã huy động được 7,88 tỷ USD, trong đó bao gồm vốn FDI và nguồn vốn DN tự huy động. Tổng vốn ngoài ngân sách chiếm khoảng 75-80% vốn đã đầu tư vào hệ thống hạ tầng hàng hải.
Đánh giá kết quả đạt được, ông Nguyễn Danh Huy, Vụ trưởng, Trưởng ban Ban Quản lý đầu tư các dự án đối tác công - tư (PPP), Bộ Giao thông - Vận tải cho rằng, quá trình thu hút đầu tư vào hạ tầng hàng hải đã đạt được nhiều thành công. Và để thu hút được nguồn vốn ngoài ngân sách, Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan đã ban hành nhiều cơ chế chính sách để thu hút đầu tư, huy động các nguồn vốn xã hội khác bằng nhiều hình thức như BOT, BT… bằng nhiều chính sách ưu đãi trong hoạt động kinh doanh, khai thác cảng biển… Việc sửa đổi, bổ sung, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về xã hội hoá đầu tư kết cấu hạ tầng hàng hải cơ bản đã hoàn thành trong năm 2015.
Hạ tầng hàng hải đã phát triển mạnh nhưng còn thiếu đồng bộ |
Với các cơ chế thu hút đầu tư thông thoáng, thời gian qua nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực vận tải và điều hành khai thác cảng biển trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam để hình thành các liên doanh đầu tư xây dựng và khai thác cảng biển, như Hutchison, PSA, DP World, SSA, Maersk A/S… Đây là nền tảng rất thuận lợi để cảng biển Việt Nam trở thành một mắt xích trong chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn hàng hải và khai thác cảng biển hàng đầu thế giới.
Kết quả là cho tới nay hệ thống cảng biển Việt Nam đã cơ bản hình thành, tạo nên mạng lưới cảng biển trên toàn quốc với các cảng biển có chức năng khác nhau, bao gồm cảng biển tổng hợp quốc gia, cảng địa phương, khu vực, cảng cửa ngõ cho các vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc, Trung và miền Nam, cảng trung chuyển quốc tế.
Về cơ bản, các cảng tổng hợp trọng điểm đã được đầu tư theo đúng quy hoạch tổng thể được phê duyệt, chẳng hạn cảng Cái Lân, Hải Phòng, Đà Nẵng, Dung Quất, Quy Nhơn, Thị Vải, Sài Gòn, Cần Thơ… Chúng ta cũng đã tận dụng vốn ODA của các nhà tài trợ như WB, ADB… để hoàn thành đầu tư các cảng trọng điểm ở 3 miền như Cái Lân (Quảng Ninh – miền Bắc); Tiên Sa (Đà Nẵng – miền Trung) và Cái Mép – Thị Vải (Bà Rịa Vũng Tàu – miền Nam).
Hệ thống cảng biển đã cơ bản đảm bảo thông qua lượng hàng xuất nhập khẩu và giao lưu giữa các vùng miền trong nước bằng đường biển, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và bước đầu đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đẩy mạnh hơn vốn xã hội hoá
Với điều kiện eo hẹp của ngân sách Nhà nước hiện nay, theo kế hoạch thì cảng Lạch Huyện (Hải Phòng) sẽ là dự án hạ tầng cuối cùng mà Nhà nước đầu tư vào hàng hải. Trong khi đó theo Bộ Giao thông - Vận tải, trước nhu cầu phát triển kinh tế, đặc biệt tập trung mở rộng vào kinh tế biển thì cơ sở hạ tầng kết nối với hệ thống hàng hải cũng cần được nâng cấp nhiều. Do đó, áp lực thu hút đầu tư vào hạ tầng hàng hải trong giai đoạn tới còn lớn hơn trước. Vì vậy, việc xã hội hóa đầu tư hạ tầng hàng hải tới đây còn phải làm tốt hơn nữa.
Cụ thể, hệ thống luồng hàng hải phần lớn đã đáp ứng được nhu cầu vận tải ra vào các cảng biển, tuy nhiên hiệu quả khai thác của các tuyến luồng chưa cao. Hiện tại, việc duy trì đảm bảo độ sâu thiết kế cho các tuyến luồng hàng hải mỗi năm cần kinh phí khoảng 1.300 tỷ đồng để duy tu, nạo vét, nhưng Nhà nước chỉ có thể bố trí ngân sách khoảng trên 600 tỷ đồng, tập trung chủ yếu ở một số tuyến luồng trọng điểm.
Về hạ tầng kết nối, hệ thống đường bộ có năng lực mạng lưới còn tương đối thấp, với mật độ đường quốc lộ rất thấp, khoảng 90% đường quốc lộ vẫn chỉ có 2 làn xe, trong khi hiện vẫn còn khoảng 500 cầu yếu trên hệ thống quốc lộ. Đối với hệ thống đường sắt, tuyến đường sắt trong 6 nhóm cảng biển hiện nay chủ yếu là tuyến đường sắt Bắc Nam theo trục dọc của đất nước, tuyến đường ngang chỉ tập trung tại khu vực phía Bắc, trong khi ở các khu vực khác chưa có tuyến đường sắt quốc gia kết nối.
Về dịch vụ sau cảng biển như cảng ICD, khu logistics… còn rất nhỏ bé và sơ khai, chỉ mới đóng góp khoảng 2-4% GDP. Hiện nay do kết cấu hạ tầng giao thông vận tải chưa hoàn chỉnh, năng lực vận chuyển thấp, chưa sử dụng mô hình vận tải đa phương thức, cơ sở hạ tầng cứng và mềm cho sự phát triển dịch vụ này còn rất hạn chế… vì vậy các hoạt động dịch vụ logistics còn ở trình độ thấp, manh mún, tự phát.
Với nhu cầu đầu tư còn thiếu hụt nhiều như vậy, ông Nguyễn Danh Huy cho biết, mục tiêu cụ thể trong huy động vốn ngoài ngân sách giai đoạn 2015-2020 đạt khoảng 45,5% (tương ứng khoảng 45.500 tỷ đồng) tổng nhu cầu vốn đầu tư vào hạ tầng hàng hải. Giai đoạn sau năm 2020 đạt khoảng 80% tổng nhu cầu vốn đầu tư.
Cơ quan này dự báo, đối với phát triển đội tàu biển đến năm 2020 ước tính khoảng 1-1,5 tỷ USD, do các DN tự huy động từ các nguồn hợp pháp. Đối với đầu tư xây dựng cảng biển, các hạng mục cơ sở hạ tầng bến cảng thực hiện từ nguồn vốn xã hội hoá ước tính đến năm 2020 khoảng 100.000 tỷ đồng; mở thêm 17 tuyến luồng mới với kinh phí khoảng 33.000 tỷ đồng; cải tạo nâng cấp luồng tàu với kinh phí khoảng 8.000 tỷ đồng; đối với các kết cấu hạ tầng hàng hải khác như thông tin điện tử, hỗ trợ hàng hải, tìm kiếm cứu nạn, hoa tiêu hàng hải… dự kiến tổng kinh phí đầu tư khoảng gần 2.000 tỷ đồng.
Với nguồn vốn đầu tư ước tính khá lớn và được rót vào nhiều hạng mục như vậy, thời gian tới rất cần thiết kế lại các chính sách thu hút đầu tư phù hợp để tạo nguồn lực đột phá hỗ trợ cho ngân sách Nhà nước trong phát triển kết cấu hạ tầng hàng hải.