Chiến lược tăng trưởng xanh: Xu hướng của thời đại
Thực trạng phát triển kém bền vững
Nhận định từ chuyên gia: Kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong vài thập kỷ qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm đạt trên 7%, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể và cơ cấu kinh tế đang dần chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa... Đặc biệt, vị thế chính trị và kinh tế của đất nước trên trường quốc tế đã được nâng cao. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa bền vững. Điều này thể hiện qua chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu càng cho thấy rõ điều này.
Với bờ biển dài, Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển phong điện
Nhằm cải thiện tình hình trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra Dự thảo "Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam" thời kỳ 2011-2020 và Tầm nhìn đến 2050. Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thế Phương nhận định, những năm qua phát triển kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, dựa nhiều vào khai thác tài nguyên với cường độ cao, hiệu quả thấp dẫn đến tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm nặng. Trong khi, các ngành kinh tế thân thiện với môi trường chưa được phát triển. Hiện nỗ lực toàn cầu ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính càng đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh Chiến lược tăng trưởng… Do đó, Việt Nam phải điều chỉnh chiến lược tăng trưởng theo hướng Tăng trưởng Xanh.
Và hướng phát triển bền vững
Ông Bakhodir Burkhanov - Phó trưởng đại diện Chương trình phát triển Liên Hiệp quốc (UNDP) tại Việt Nam nhấn mạnh, phát triển xanh đang là chủ đề toàn thế giới quan tâm hiện nay. Nhiều nước phát triển trên thế giới đã rất quan tâm đến vấn đề này và đã đưa ra những chiến lược phát triển cụ thể như Hàn Quốc, Trung Quốc, Mexico… Việt Nam cũng phải quan tâm đến tăng trưởng xanh nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của quốc gia, phát triển cho DN.
Mỗi quốc gia tùy theo tình hình kinh tế, điều kiện phát triển để đưa ra những định nghĩa khác nhau về tăng trưởng xanh. Hàn Quốc đã đưa ra định nghĩa: "Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng đạt được bằng cách tiết kiệm và sử dụng các nguồn tài nguyên và năng lượng hiệu quả để giảm thiểu biến đổi khí hậu và thiệt hại tới môi trường, tạo ra các động lực tăng trưởng mới thông qua nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh, tạo các cơ hội việc làm mới và đạt được sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường".
Đến năm 2020: GDP bình quân đầu người gấp đôi mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3% mỗi năm, giảm cường độ phát thải khí nhà kính 10-15% so với mức 2010; hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại và hiệu quả, trong đó giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 42-45% trong tổng GDP, yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%. Đến năm 2030: Việt Nam đạt trình độ nước có thu nhập trung bình trên thế giới, thiết lập được đầy đủ nền tảng vật chất, kỹ thuật, nguồn nhân lực và thể chế phù hợp để thực hiện phổ biến phương thức tăng trưởng xanh. Giảm tổng mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 2-3%; yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 50%. Đến năm 2050: Năng lượng và công nghệ xanh được sử dụng. |
Việt Nam, định nghĩa về tăng trưởng xanh được nêu trong Dự thảo: "Tăng trưởng xanh ở Việt Nam là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững".
Mục tiêu chiến lược này nhằm thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, cụ thể: Khuyến khích các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên với giá trị gia tăng cao, hạn chế, tiến tới xóa bỏ những ngành sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường; Ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại, nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với vấn đề biến đổi khí hậu; Nâng cao đời sống nhân dân thông qua việc tạo thêm việc làm từ các ngành công nghiệp xanh và cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua việc xây dựng lối sống thân thiện với môi trường.
Về phía các DN, để phát triển bền vững, đòi hỏi các sản phẩm, dịch vụ phải đáp ứng nhu cầu thân thiện với môi trường của xã hội. Muốn vậy DN cần tiếp cận được với nhiều công nghệ mới, hiện đại để nâng cao hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên thách thức không nhỏ cũng được đặt ra đối với DN là phải xác định các nhân tố trong mô hình cạnh tranh - phát triển thay đổi đồng thời phải đảm bảo tuân thủ các quy định về môi trường, nâng cao trách nhiệm xã hội. Ví dụ: giảm phát thải; Bảo vệ môi trường; Loại bỏ ngành nghề kinh doanh không phù hợp; Cạnh tranh của các DN nước ngoài…
Theo Thứ trưởng Nguyễn Thế Phương, sau khi lấy ý kiến, tham vấn của các địa phương, DN về Dự thảo "Chiến lược Tăng trưởng xanh của Việt Nam" sẽ báo cáo Thủ tướng vào cuối tháng 6/2012.
Một số ý kiến từ địa phương Tỉnh Bạc Liêu: Dự án điện gió của Bạc Liêu được khởi công vào cuối năm 2010, tính đến thời điểm này, dự án đã có những bước đi rất tích cực. Đây là nguồn năng lượng tái tạo mới, xanh - sạch và thân thiện với môi trường. Dự án mang tính đột phá trong khai thác điện gió tại vùng ĐBSCL. Đây là mô hình cần được nhân rộng trong tương lai. Tỉnh An Giang: Về khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên cần phải điều tra, đánh giá trữ lượng, khả năng tái sinh, giá trị kinh tế để làm căn cứ lập quy hoạch sử dụng và xác định mức độ giới hạn cho phép khai thác, mức thuế, phí bảo vệ, bồi thường thiệt hại và các biện pháp khác để bảo vệ môi trường. Tỉnh Kiên Giang: Chiến lược xanh là cần thiết, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên cần có những cơ chế chính sách phát triển về tăng trưởng xanh, đồng thời cần phổ biến, tuyên truyền nâng cao nhận thức đến tất cả các bộ, ban, ngành, địa phương, cộng đồng dân cư và doanh nghiệp về mục tiêu, nhiệm vụ trong xây dựng và thực hiện Chiến lược Tăng trưởng xanh của Việt Nam. (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư). |
Bà Đỗ Thị Thu Hà - Phó tổng giám đốc KPMG: Cần khuyến khích DN tham gia phát triển xanh Hiện các nước trong khu vực đã và đang đầu tư vào chiến lược Phát triển xanh như Trung Quốc, Hàn Quốc. Trong quá trình mà họ đưa ra các gói cứu trợ kinh tế trong cuộc khủng hoảng kinh tế mấy năm trước, Trung Quốc là 586 tỷ USD trong đó chi 200 tỷ USD cho chiến lược phát triển xanh, Hàn Quốc thì đến 80% chi tiêu liên quan đến phát triển xanh trong gói phát triển kinh tế của họ. Tại Việt Nam cần kêu gọi được sự quan tâm của các nhà đầu tư (NĐT) tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này, bởi các dự án phát triển xanh rất tốt, tuy nhiên hiện tại đầu tư cho công nghệ lại rất tốn kém. Bên cạnh đó các NĐT nước ngoài, NĐT tư nhân khi tham gia vào dự án này, họ muốn biết sẽ giảm thiểu rủi ro như thế nào, có những ưu đãi về đầu tư ra làm sao để họ có thể vững tin khi đầu tư vào các dự án phát triển xanh. Thông thường các chiến lược phát triển xanh được chia thành 3 giai đoạn. Thứ nhất, phát triển các chiến lược: Đó là bởi, phát triển xanh không chỉ nằm ở một lĩnh vực nào và không phải chỉ trong ngắn hạn. Đó phải là chương trình dài hơi, liên tục, mà trong đó rất nhiều lĩnh vực cần đầu tư phát triển xanh. Với đòi hỏi như vậy, chúng ta không thể phát triển đồng thời nhiều lĩnh vực cùng một lúc, vì vậy cần đưa ra những vấn đề có tầm chiến lược, tầm nhìn. Sau đó đưa ra một cơ chế về quản trị, hạ tầng về định chế để có thể đưa ra các chiến lược đầu tư cho phát triển xanh; Thứ hai, tiền thực hiện: Từ những chiến lược, những tầm nhìn ở giai đoạn đầu, chúng ta đưa ra các mục tiêu, kế hoạch (ví dụ; kế hoạch cụ thể 5 năm, 10 năm) và phát triển các chính sách còn thiếu, phát hiện những rủi ro của thị trường để đưa ra phân tích về tài chính, công nghệ để giảm thiểu rủi ro; Thứ ba, phát triển hợp tác với các DN, NĐT tư nhân, đồng thời phát triển các định chế về đánh giá, về báo cáo và thực thi dự án. Trong bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, việc tạo ra được sự hợp tác giữa chính phủ và các bên tham gia như tài chính, DN cùng thực thi các dự án là rất quan trọng. Ví dụ, sự phối hợp giữa Chính phủ Việt Nam với các nhà tài trợ các chính phủ khác; với các cơ quan địa phương: họ có nhiệm vụ đưa ra các chính sách ổn định, đưa ra các quy chế về định chế và thẩm định các dự án một cách rõ ràng. Nhờ vậy, họ khiến cho các dự án sẽ khả thi hơn, đồng thời có thể kêu gọi được các nguồn vốn cho vay. Mặt khác, họ cũng đưa ra sự đảm bảo rủi ro. Một NĐT sẽ ít muốn vào đầu tư, nếu họ thấy rằng khi đầu tư mà không biết các vấn đề như chuyển lợi nhuận ra nước ngoài như thế nào, thuế ra làm sao… Từ đó, sẽ khiến họ có những định chế rõ ràng giữa các bên cung cấp tài chính như là quỹ đầu tư tư nhân, quỹ đầu tư quốc tế… Bên cạnh đó, các DN với các nghiệp vụ là: đầu tư, cung cấp các kỹ năng và công nghệ. Tất cả sẽ tạo nên mối quan hệ hài hòa và giúp cho việc có thể kêu gọi đầu tư vào dự án và các dự án có thể thành công tốt đẹp. Để kêu gọi đầu tư cho phát triển xanh, các NĐT tư nhân, các tổ chức tài chính luôn luôn phải xem xét mọi vấn đề, rủi ro trên thị trường. Hiện thị trường vốn ở Việt Nam rất mỏng, trình độ năng lực đội ngũ phát triển xanh còn nhiều hạn chế. Do vậy, so sánh rủi ro với giá trị lợi nhuận NĐT thu được có thể khiến cho chúng ta phải xem xét giải pháp, để giải quyết được rủi ro, những quan ngại của phía NĐT tư nhân. Cụ thể như đưa ra chính sách bình ổn, đưa ra các định chế, kế hoạch thực hiện các dự án, đưa ra các phương án khuyến khích các tổ chức tài chính cho vay với lãi suất ưu đãi... |
Nguyễn Minh