Đón sóng cách mạng công nghiệp 4.0: Kỳ vọng phải dựa trên thực tế
Số hóa: Mở cửa đón nhận hay cài then để tụt hậu? | |
Chủ động với cách mạng công nghiệp 4.0 | |
Cải cách để bứt phá trong cách mạng công nghiệp 4.0 |
Đánh giá tác động của CMCN 4.0 với ngành Ngân hàng, chỉ ra những cơ hội, thách thức, làm rõ những điều kiện mà ngành Ngân hàng cần hướng tới triển khai... là những nội dung chủ yếu được các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý tập trung bàn thảo trong khuôn khổ Hội thảo khoa học “Ngành Ngân hàng Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ (Bộ KH&CN) tổ chức cuối tuần qua tại Hà Nội.
Nhận diện thách thức
Dẫn lại lời của GS. Kaus Schwab - Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới khi cho rằng khái niệm công nghiệp 4.0 hay Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là một thuật ngữ bao trùm, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh khẳng định: Điều khiến cho cuộc CMCN 4.0 trở nên khác biệt với các cuộc cách mạng trước đó chính là sự dung hợp các công nghệ và sự tương tác của chúng trên các lĩnh vực vật lý, số hoá và sinh học. Việt Nam nói chung và ngành Ngân hàng Việt Nam nói riêng không nằm ngoài vòng ảnh hưởng của cuộc cách mạng này.
Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh phát biểu tại Hội thảo |
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội mở ra từ CMCN 4.0, ngành Ngân hàng cũng đồng thời phải đối mặt với những thách thức không nhỏ trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng thích ứng với bối cảnh CMCN 4.0; thách thức đối với các ngân hàng trong thay đổi mô hình quản trị điều hành, mô hình kinh doanh, cấu trúc sản phẩm dịch vụ thích ứng với xu hướng khách hàng thế hệ số, nền kinh tế số cũng như thách thức trong phòng ngừa rủi ro an ninh mạng và bảo vệ bí mật thông tin khách hàng trong kỷ nguyên số.
Đưa ra những thách thức mà hệ thống ngân hàng phải đối mặt, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng Phạm Xuân Hoè cho biết, đó là việc bảo mật thông tin và an ninh mạng tài chính quốc gia, các loại tội phạm công nghệ cao cũng như thách thức về trình độ, năng lực, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ CNTT.
Trong đó, NHNN sẽ phải đối diện với 4 thách thức lớn. Thứ nhất là về tiền điện tử, thanh toán xuyên biên giới qua công nghệ 4.0 và chính sách tiền tệ. Thứ hai nằm ở việc kiểm soát dòng tiền, rủi ro thanh khoản và an toàn thanh toán, an toàn hoạt động toàn hệ thống. Thứ ba là thách thức về hạ tầng CNTT, chuẩn mực thẻ, chuẩn dữ liệu thông tin kết nối. Cuối cùng là năng lực thể chế để theo kịp sự bùng nổ của tài chính số. Còn với các NHTM cũng sẽ phải đối diện với 4 thách thức: năng lực tài chính đầu tư cho CNTT, chuyển đổi mô hình kinh doanh từ truyền thống sang ngân hàng số, chất lượng nguồn nhân lực và văn hoá quản trị công ty, rủi ro đối với khách hàng vay vốn khi CMCN 4.0 làm họ suy yếu, phá sản.
Cùng chung quan điểm với đại diện Viện Chiến lược ngân hàng, ông Nguyễn Ngọc Hoàng - Trưởng tư vấn chiến lược Công nghệ mới cho ngành Ngân hàng (KPMG) bổ sung thách thức còn đến từ việc cạnh tranh với các Fintech Startup hay từ các bên liên quan như mức độ nhận thức của khách hàng, mức độ sẵn sàng của đối tác hay việc hoàn thiện về khung pháp lý…
Nhắc tới khung pháp lý, dưới góc độ của một NHTM, ông Nguyễn Hưng - Tổng giám đốc TPBank thẳng thắn nhìn nhận, sự thiếu tính đồng bộ, thống nhất trong các quy định, thủ tục liên quan tới nhiều bộ, ban, ngành gây trở ngại không nhỏ trong xây dựng quy định pháp lý mới đáp ứng nhu cầu cải cách công nghệ ngành Ngân hàng.
Một ví dụ điển hình là việc áp dụng công nghệ nhận dạng chữ viết (OCR) trong định danh khách hàng. Tại các nước phát triển, ứng dụng nhận dạng OCR chỉ cần đọc các ký tự, hình ảnh trên CMND khách hàng với một mẫu đồng bộ cho mỗi quốc gia. Thế nhưng ở Việt Nam, ứng dụng này cần nhận biết ba loại giấy tờ xác định danh tính khác nhau (CMND cũ 9 số, CMND mới 12 số và Căn cước công dân 12 số) với bố cục, mẫu thiết kế đặc trưng, và thay đổi tùy theo giai đoạn.
“Như vậy, trước khi có quy định cho phép ứng dụng giải pháp định danh khách hàng từ xa, cơ quan quản lý phải cân nhắc đến khả năng áp dụng với tình trạng hồ sơ khách hàng “muôn hình vạn trạng” hiện nay tại Việt Nam”, theo lãnh đạo TPBank.
Toàn cảnh Hội thảo |
Điều kiện thích ứng
Đứng trước sự phát triển chóng mặt của công nghệ, câu hỏi đặt ra là ngân hàng truyền thống cần có động thái gì? Theo ông Nguyễn Ngọc Hoàng, trở thành ngân hàng số là chuyện tất yếu. Nhưng điều mà các nhà băng tại Việt Nam cần quan tâm là lựa chọn để trở thành một ngân hàng hoàn toàn mới hoạt động chủ yếu trên các kênh trực tuyến, hay định vị lại thương hiệu thành một ngân hàng được biết đến qua việc liên tục sáng tạo dựa trên công nghệ, hoặc sẽ là cả hai lựa chọn trên. Tuy nhiên theo ông, dù lựa chọn hướng đi nào, các ngân hàng vẫn cần đảm bảo được các yếu tố: Sự gắn bó với khách hàng (các kênh giao tiếp trực tuyến), vận hành hiệu quả thông qua tự động hoá quy trình, nhanh - tốc độ - hiệu quả, dữ liệu và quyết định, loại hình dịch vụ mới.
Chiến lược tích hợp đa kênh (OmniChannel) cũng được một số đại biểu đề cập tới tại hội thảo. Theo đó, thông tin cá nhân, lịch sử giao dịch, nội dung trao đổi với khách hàng sẽ được lưu trữ và đồng bộ trên mọi kênh tiếp cận, xây dựng trải nghiệm mượt mà và đồng nhất khi khách hàng luân chuyển giữa các thiết bị hoặc kênh bán vào mọi thời điểm, bất kể khoảng cách địa lý. “Hơn nữa, sự thống nhất về thông tin cho phép ngân hàng có cái nhìn toàn cảnh về khách hàng, không chỉ nhu cầu mà bao gồm cả sở thích, thói quen, là cơ sở để thiết kế những trải nghiệm đặc biệt, mang tính cá nhân hóa cho từng khách hàng”, Tổng giám đốc TPBank chia sẻ. Qua đó, những giải pháp tiếp thị số cũng được tạo điều kiện phát triển.
Ứng dụng công nghệ 4.0 thúc đẩy phát triển dịch vụ thanh toán |
Hợp tác ngân hàng với Fintech cũng là vấn đề được nhiều đại biểu nhắc tới. TS. Vũ Đình Ánh nêu câu hỏi: Hiện Fintech ở Việt Nam đang đứng vị thế là đối tác của ngân hàng nhưng xu thế đã nhìn thấy trên thế giới là Fintech có thể trở thành đối thủ của ngân hàng, còn tại Việt Nam thì sao? Xác định rõ được điều này rất quan trọng trong việc ứng xử với Fintech như thế nào. Trả lời câu hỏi của TS. Vũ Đình Ánh, ông Phạm Tiến Dũng – Vụ trưởng Vụ Thanh toán (NHNN) cho biết: “Khảo sát gần đây nhất cho thấy chỉ có khoảng 12% Fintech cạnh tranh với ngân hàng, còn hơn 80% là Fintech hợp tác với ngân hàng. Câu chuyện hợp tác là xu hướng chủ đạo của Việt Nam”.
Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh: Cần nghiên cứu chuyên sâu về những tác động của CMCN 4.0 Nhận biết được tầm quan trọng và sự tác động mạnh mẽ của CMCN 4.0, NHNN đã chủ động thực hiện nhiều hoạt động của Ngành nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ theo Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0. Trong đó tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý hỗ trợ cho hoạt động thanh toán, phát triển hạ tầng CNTT, an toàn, bảo mật; tăng cường phát triển hạ tầng CNTT; đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và Chính phủ điện tử. Đồng thời tích cực hỗ trợ sự phát triển của các công ty Fintech, tổ chức cuộc thi Thử thách sáng tạo cùng công nghệ tài chính (FCV) lần đầu tiên tại Việt Nam vào tháng 5/2018; tăng cường công tác truyền thông và nghiên cứu khoa học về ứng dụng công nghệ thành tựu CMCN 4.0 trong ngành Ngân hàng. Thời gian qua, nhiều NHTM đã ứng dụng một số công nghệ, giải pháp của CMCN 4.0 như phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, xác thực sinh trắc học… để tạo ra một số dịch vụ thanh toán số, ngân hàng số. Ngân hàng cũng đã áp dụng công nghệ để đánh giá hành vi khách hàng, dự đoán doanh thu, nhu cầu thị trường, cảnh báo rủi ro. Nhiều ngân hàng bước đầu chuyển đổi mô hình hoạt động, kinh doanh và sản phẩm, dịch vụ theo hướng số hóa thực thụ như TPBank với ngân hàng tự động LiveBank, VPBank với ứng dụng ngân hàng số Timo, OCB với chiến lược chuyển đổi ngân hàng số, Vietcombank với không gian ngân hàng số Digital Lab… Để tiếp cận thành công và tận dụng được những lợi thế mà CMCN 4.0 mang lại, cần có thêm nhiều nghiên cứu chuyên sâu về những tác động của CMCN 4.0 đến ngành Ngân hàng. Đặc biệt cần chỉ ra được những điều kiện triển khai và thích ứng với CMCN 4.0 của Ngành. Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Phạm Đại Dương: Sự chủ động tạo ra lợi thế cạnh tranh Bộ Khoa học và Công nghệ với vai trò là cơ quan đầu mối của Chính phủ về triển khai Chỉ thị 16/CT-TTg, đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để triển khai các giải pháp; đánh giá cơ hội, thách thức đối với từng ngành. Qua đó, xây dựng chiến lược tiếp cận tổng thể của Chính phủ đối với CMCN 4.0. Hiện Bộ đang được Chính phủ giao phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Kế hoạch hành động của Chính phủ để triển khai Nghị quyết Bộ Chính trị. Ngân hàng được đánh giá là một trong những ngành chủ động và đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong quản lý và kinh doanh. Dưới sự điều hành của NHNN và sự năng động của hệ thống các NHTM, những công nghệ tiên tiến đã được ứng dụng đồng bộ, hiệu quả trong toàn bộ hệ thống. Sự chủ động này đã tạo ra một nền tảng vững chắc và những lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh mới, khi kinh tế số phát triển, xu thế thanh toán điện tử tăng nhanh, trung tâm kinh tế thế giới dịch chuyển dần từ tây sang đông. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế thì cũng có không ít rủi ro và thách thức khi sự phát triển của các công nghệ mới như blockchain, big data, trí tuệ nhân tạo… đòi hỏi ngành Ngân hàng phải có những sự thay đổi về mô hình quản lý, cấu trúc sản phẩm, hay những nguy cơ đến từ các vấn đề về bảo mật, an toàn, an ninh mạng. |