Nhiều điểm nghẽn trong phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam
Sản xuất công nghiệp có xu hướng phục hồi, nhưng vẫn thấp hơn cùng kỳ | |
Liên kết APEC thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ | |
Cơ hội phát triển công nghiệp chế biến |
Ngày 31/5, Bộ Công Thương phối hợp với Dự án Hỗ trợ chính sách thương mại và đầu tư của châu Âu (EU-MUTRAP) tổ chức Hội thảo quốc gia về “Kế hoạch cơ cấu lại ngành công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2017-2020 hướng tới tăng trưởng nhanh và bền vững”.
Theo ông Dương Duy Hưng- Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ Công Thương), tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đang có dấu hiện chững lại trong những năm gần đây. Mặc dù hầu hết các ngành công nghiệp vẫn tiếp tục có mức tăng trưởng dương, tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng đang giảm trong những năm gần đây, từ 14,3%/năm của giai đoạn 2006 - 2010 giảm xuống 10%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 và giảm hầu hết trong các nhóm ngành công nghiệp.
Trong khi đó, năng suất lao động (NSLĐ) chưa được cải thiện đáng kể, đặc biệt là trong nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo, trong khi đây là nhóm ngành động lực cho phát triển công nghiệp, đã làm nới rộng khoảng cách về năng suất của nền công nghiệp Việt Nam so với các nước trên thế giới.
NSLĐ công nghiệp Việt Nam bị bỏ xa so với các nước phát triển và các nước trong khu vực. Năng suất lao động của Nhật Bản cao gấp 39 lần của Việt Nam, Singapore cao gấp 26 lần, Hàn Quốc cao gấp 16 lần và Trung Quốc cao gấp 2 lần. So với các nước đang phát triển trong khu vực thì Malaysia cao gấp 6,5 lần, Thái Lan và Philipines cao gấp 1,5 lần.
TS Nguyễn Tuệ Anh, Phó Viện trưởng Viện Quản ký Kinh tế Trung ương đã chỉ ra những tồn tại của ngành công nghiệp Việt Nam: Trong ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng khá lớn vào ngành công nghiệp nói chung nhưng đây lại là ngành có năng suất lao động thấp nhất. Như ngành sản xuất điện có năng suất lao động cao nhưng tỷ trọng của giá trị gia tăng ngành công nghiệp thì lại nhỏ. Tăng trưởng của ngành công nghiệp phụ thuộc vào lao động còn công nghệ dường như đóng góp thấp, không thay đổi.
Nói về giải pháp gia tăng giá trị gia tăng đã triển khai thời gian qua, bà Nguyễn Tuệ Anh chia sẻ: “Tôi cho rằng giá trị gia tăng thấp vì thời gian vừa qua công nghiệp mở rộng quy mô nhưng hàm lượng giá trị gia tăng vẫn chủ yếu là gia công, lắp ráp. Ngành điện tử trong vài năm trở lại đây tăng trưởng cao, DN xuất khẩu với quy mô lớn nhưng tỷ lệ giá trị gia tăng không cao, vì phần lớn đầu vào của họ là nhập khẩu. Bản chất là gia công, lắp ráp nên giá trị gia tăng còn thấp”.
Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp của chúng ta chủ yếu vẫn làm gia công, lắp ráp. Nếu một số ngành có quy mô xuất khẩu cao và phụ thuộc vào thị trường bên ngoài, nên bất kỳ sự lên xuống nào của thị trường cũng ảnh hưởng tới các ngành đó. Ngoài ra, việc phát triển của một số ngành đã tới ngưỡng, nếu để tăng thêm thì cần tăng thêm các yếu tố khác ngoài yếu tố về vốn và lao động như hiện nay.
Để khắc phục những điểm nghẽn trên, theo ông Dương Duy Hưng, chúng ta phải xác định được điểm nghẽn cơ bản trong phát triển công nghiệp và tái cơ cấu công nghiệp trong 5 năm trở lại đây. Qua đó làm sao xác định chính xác đầy đủ những điểm còn tồn tại hạn chế ảnh hướng tới phát triển công nghiệp và tái cơ cấu công nghiệp nói riêng để tạo ta chuyển biến mạnh mẽ hơn trong việc phát triển công nghiệp và tái cơ cấu công nghiệp đến năm 2030.
“Xu hướng hội nhập, kí kết FTA là một trong những xu hướng ko thể tránh khỏi, chúng tôi cho rằng chúng ta tận dụng khá tốt nhiều FTA, tăng trưởng xuất khẩu những mặt hàng lợi thế ra ngoài nước”, ông Dương Duy Hưng cho biết.
Ngoài ra, một trong những việc cần phải làm là tăng tỷ lệ nội địa hoá cho các ngành sản xuất trong nước là việc quan trong. Từng ngành cần có kế hoạch cụ thể và có những bước đi cơ cấu lại trong những lĩnh vực.
Còn theo bà Nguyễn Tuệ Anh, việc tái cơ cấu công nghiệp làm sao để tăng giá trị gia tăng trong nước, tăng năng suất lao động và ngành có thể cạnh tranh hơn. Quan trọng hơn, mục tiêu thời gian tới đây của Việt Nam là cần phát triển được lĩnh vực kinh tế tư nhân.
Bà Nguyễn Tuệ Anh cho rằng: “Chủ trương, chính sách công nghiệp phụ trợ đã được đề cập từ lâu nay, nếu đánh giá chung thì lĩnh vực này rất rộng và theo tôi chỉ nên tập trung phát triển công nghiệp phụ trợ cho một số ngành, lĩnh vực cụ thể, không nên dàn trải”.
Ví dụ, Việt Nam chỉ nên đầu tư vào công nghiệp phụ trợ cho những ngành có quy mô kinh tế lớn như công nghiệp điện tử vì dung lượng thị trường khá lớn, hơn nữa các điều kiện để phát triển cũng gần như đầy đủ và chỉ thiếu một chút đó là năng lực của doanh nghiệp trong nước.