Thiết kế lại chính sách ưu đãi đầu tư
Thu hút FDI: Địa phương cương quyết “chọn-bỏ” | |
5 đề xuất hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư |
Chỉ tập trung ưu đãi vào sản xuất công nghiệp thay vì cả thương mại, dịch vụ như hiện nay |
Ưu đãi rộng tay, nhà đầu tư trục lợi
“Trong bối cảnh hiện nay, mức thuế suất ưu đãi 10% đã được xem là thiên đường thuế, trong khi chúng ta lại áp dụng với thời gian lên tới 15 năm, thậm chí đến cả đời dự án”, ông Nguyễn Tử Quỳnh - Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh đánh giá thẳng thắn về các nội dung ưu đãi thuế và cho rằng mức ưu đãi về thuế suất và thời gian miễn thuế, giảm thuế ở một số lĩnh vực, ngành nghề hiện nay là quá cao.
Theo ông Quỳnh, ngoài các dự án lớn được hưởng ưu đãi vượt trội như trên, thì những ngành nghề, lĩnh vực được hưởng ưu đãi thuế suất 10% và 15% với thời gian miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp đến 9 năm cũng là quá nhiều.
Ông Nguyễn Văn Tùng - Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng đưa ra một dẫn chứng cụ thể hơn về việc ưu đãi nhầm đối tượng. Chẳng hạn, đầu tư kinh doanh trung tâm hội chợ triển lãm hàng hoá, siêu thị, trung tâm thương mại cũng thuộc danh mục ngành, nghề ưu đãi đầu tư. Trong khi đó, trên thực tế các siêu thị, trung tâm thương mại thường được lựa chọn đầu tư tại các vị trí đất có giá trị thương mại cao, trung tâm thành phố lớn và mang lại lợi nhuận cao cho DN. Vì vậy, việc đầu tư các dự án thuộc lĩnh vực này được hưởng ưu đãi đầu tư là chưa hợp lý.
Không chỉ ưu đãi rộng tay, theo các địa phương, quy định về điều kiện được hưởng ưu đãi cũng khó có thể kiểm soát được nếu chiếu theo các văn bản pháp luật hiện hành. Theo quy định tại Luật Đầu tư, các dự án có quy mô vốn từ 6.000 tỷ đồng trở lên, giải ngân tối thiểu 6.000 tỷ đồng trong thời hạn 3 năm; dự án đầu tư tại địa bàn nông thôn sử dụng từ 500 lao động trở lên đều được hưởng ưu đãi đầu tư.
Tuy nhiên các nội dung này đều do nhà đầu tư tự đề xuất, trong khi luật không quy định cụ thể về việc thẩm tra các nội dung này. Đồng thời cũng chưa có quy định về việc xử lý trường hợp dự án đã được quyết định chủ trương đầu tư, được hưởng ưu đãi, nhưng khi thực hiện lại không đạt các chỉ tiêu như đã đăng ký.
Ông Nguyễn Tử Quỳnh lo ngại, cùng với thời gian ưu đãi thuế, chính sách hiện hành không đặt ra bất kỳ sự ràng buộc nào về thời gian thực hiện dự án. Quy định này đã dẫn đến hiện tượng nhà đầu tư lợi dụng chính sách ưu đãi để hưởng lợi, sau khi hết thời gian ưu đãi lại thực hiện đầu tư mới dự án tại địa phương khác với cùng mục tiêu nhằm tiếp tục hưởng ưu đãi.
Đặt lại cho đúng đối tượng
Mặc dù nhiều ý kiến cho rằng chính sách ưu đãi đầu tư hiện nay đang có lợi hơn cho khối FDI, song các địa phương khẳng định chính sách ưu đãi đầu tư là bình đẳng giữa DN trong nước với DN nước ngoài. Vấn đề là trong thực hiện lại có bất cập. Ví như ưu đãi đối với các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, đa phần chỉ có DN FDI mới đáp ứng được điều kiện về sản phẩm, trong khi DN trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật theo thước đo quốc tế.
Mặt khác, ưu đãi thuế đối với sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được ưu tiên phát triển chưa đúng đối tượng. Chính sách hiện nay chỉ quy định DN sản xuất sản phẩm trong Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thì được ưu đãi thuế, không quy định loại DN tham gia sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ và DN tiếp nhận sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được ưu đãi về thuế.
Do đó đã dẫn đến tình trạng DN Việt Nam hầu như không thể tham gia vào chuỗi giá trị của các sản phẩm công nghiệp do các tập đoàn có công nghệ cao đầu tư vào Việt Nam. Cuối cùng ưu đãi thuế chỉ diễn ra đối với các công ty, tập đoàn lớn và các công ty con của họ tham gia sản xuất sản phẩm để cung cấp cho các công ty, tập đoàn này.
“Đề nghị cần quy định lại để đặt mục tiêu ưu đãi thuế cho cơ sở sản xuất kinh doanh trong nước tham gia hoạt động sản xuất hỗ trợ cho các DN lớn; hoặc DN lớn khi tiếp nhận sản phẩm sản xuất của các DN hỗ trợ cũng được hưởng ưu đãi về thuế”, một đại diện của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đồng Nai nêu ý kiến.
TS. Phan Hữu Thắng - nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) lưu ý rằng, các khảo sát gần đây đều cho thấy nhà đầu tư nước ngoài không quá coi trọng vấn đề ưu đãi thuế. Đồng thời nhà đầu tư cũng không coi đây là một “điểm cộng” quá lớn khi phải đưa ra quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư. Vì vậy, ông Thắng quả quyết, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để thắt chặt hết cỡ các chính sách ưu đãi hiện nay.
Theo đó, cần sửa đổi theo hướng cùng với thời gian hưởng ưu đãi thuế có kèm theo ràng buộc về thời gian thực hiện dự án nhằm tránh hiện tượng DN chuyển địa điểm đầu tư sang địa phương khác trong một quốc gia để tiếp tục hưởng ưu đãi, gây thất thu ngân sách, hoặc DN giải thể, chấm dứt hoạt động dự án khi hết thời gian ưu đãi. Nếu được miễn giảm mà không thực hiện đủ thời hạn thì phải truy hoàn lại và nộp lại ngân sách.
Thời gian miễn thuế, giảm thuế cũng phải xem xét lại theo hướng giảm số năm ưu đãi. Với tốc độ phát triển, ứng dụng công nghệ cao như hiện nay thì thời gian ưu đãi chỉ nên quy định tối đa bằng 10% thời gian dự án đầu tư hoạt động có thu nhập chịu thuế. Ngoài ra, chỉ nên ưu đãi trong khu kinh tế đối với những DN công nghệ cao và lĩnh vực sản xuất thay vì phủ đến cả hoạt động thương mại và dịch vụ như hiện nay.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cho rằng chính sách ưu đãi hiện nay đối với công nghiệp hỗ trợ không hấp dẫn nhà đầu tư, gần như chỉ dẫn chiếu đến các văn bản pháp luật về thuế, đất đai... Nhưng ngược lại, các văn bản quy định ưu đãi về thuế, đất đai lại không có điều khoản quy định về cơ chế ưu đãi riêng cho lĩnh vực đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ. Vì vậy, cần cấp bách sửa đổi, bổ sung các quy định này.