Thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu: UBTVQH sẽ quyết định mức thuế suất
Gia tăng kiểm tra, bảo vệ môi trường | |
Chưa đề xuất tăng thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu | |
Thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu chính thức tăng gấp 3 lần |
Ông Phạm Đình Thi |
Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính - ông Phạm Đình Thi, giải tỏa những thắc mắc về việc tăng khung thuế suất thuế bảo vệ môi trường (BVMT) với xăng dầu.
Thưa ông, tại sao lại điều chỉnh khung thuế BVMT đối với xăng dầu? Có ý kiến cho rằng, việc điều chỉnh khung thuế này là để bù đắp cho tình hình căng thẳng của ngân sách hiện nay?
Việc đề xuất điều chỉnh khung thuế đối với xăng dầu là nhằm: Chủ động ứng phó với diễn biến giá dầu trên thị trường thế giới, đảm bảo lợi ích quốc gia trong điều kiện hội nhập sâu khi thực hiện cắt giảm dần thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế; Đảm bảo tính ổn định của luật; Tránh chênh lệch nhiều về giá bán xăng dầu của Việt Nam với các nước có chung đường biên giới; Đảm bảo thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về BVMT.
Xăng dầu là sản phẩm chứa các chất hóa học, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường ở diện rộng. Các nước trên thế giới đã đưa xăng dầu vào đối tượng thu thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế BVMT nhằm mục đích BVMT với các tên gọi khác nhau như thuế nhiên liệu, thuế năng lượng, thuế phương tiện...
Mức thuế BVMT cụ thể hiện hành đối với xăng dầu đã bằng mức tối đa trong khung thuế (nhiên liệu bay) hoặc gần bằng mức tối đa trong khung thuế. Theo đó, trường hợp cần thiết phải điều chỉnh mức thuế BVMT cụ thể đối với xăng dầu để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ là rất khó, đặc biệt trong điều kiện phải cắt giảm dần thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế và giá xăng dầu của Việt Nam hiện đang thấp hơn so với giá xăng dầu của các nước có chung đường biên giới nói riêng và nhiều nước khác trong khu vực ASEAN. Do đó, Bộ Tài chính đã đề xuất điều chỉnh nâng khung thuế BVMT từ 1.000-4.000 đồng/lít lên 3.000-8.000 đồng/lít.
Vậy cơ sở nào đề xuất điều chỉnh khung mức thuế BVMT đối với xăng dầu từ 1.000 đồng/lít-4.000 đồng/lít (theo luật hiện hành) lên 3.000 đồng/lít-8.000 đồng/lít?
Bộ Tài chính đề nghị tăng khung mức thuế BVMT dựa trên 2 cơ sở chính: thứ nhất, theo cam kết của 11 Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã tham gia, thì Việt Nam phải thực hiện cắt giảm dần thuế nhập khẩu. Và, giá bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam cơ bản đang thấp hơn so với các nước có chung đường biên giới nói riêng và nhiều nước khác trong khu vực ASEAN.
Thứ hai, tỷ lệ thuế/giá cơ sở đang ở mức thấp (bao gồm cả 4 loại thuế: thuế nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế BVMT, thuế GTGT), thuế/giá cơ sở của xăng là 37,24%, diesel: 21,14%; dầu hỏa:11,5%; mazut:18,4%.
Vậy việc áp dụng thuế mới có theo lộ trình nào và mức ra sao, thưa ông?
Căn cứ vào nhiều yếu tố như đã nêu trên (cam kết quốc tế về cắt giảm dần thuế nhập khẩu, giá xăng dầu của Việt Nam so với các nước trên thế giới, tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ xăng dầu), tại dự án Luật Thuế BVMT (sửa đổi), Bộ Tài chính chỉ đề xuất điều chỉnh khung thuế BVMT đối với xăng dầu.
Trên cơ sở đánh giá tác động cụ thể đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, tới giá bán lẻ xăng dầu và đời sống người dân, tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Chính phủ sẽ trình UBTVQH quyết định mức thuế BVMT cụ thể đối với xăng dầu trong phạm vi khung quy định tại luật cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng, việc này sẽ làm giảm sức cạnh tranh của DN?
Việc đề xuất điều chỉnh khung thuế BVMT đối với xăng dầu được căn cứ vào nhiều yếu tố như tôi đã giải thích. Và khi đề xuất mức thuế BVMT cụ thể thì Bộ Tài chính sẽ phải có các đánh giá tác động của việc điều chỉnh mức thuế đến nền kinh tế trong nước để đảm bảo cùng với các giải pháp cải cách hành chính sẽ không làm giảm sức cạnh tranh của DN Việt Nam.
Ông có thể cho biết các khoản thu từ thuế BVMT hiện nay được sử dụng cho công tác BVMT như thế nào?
Theo quy định của Luật NSNN, thuế BVMT là khoản thu NSNN và được sử dụng chi thực hiện các nhiệm vụ chi theo Luật NSNN như chi đầu tư phát triển (chi đầu tư cho các dự án, chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các DN...), chi đảm bảo xã hội (bao gồm cả chi thực hiện các chính sách xã hội theo quy định)... và hàng năm, NSNN vẫn bố trí riêng cho hoạt động sự nghiệp môi trường.
Việc chi cho môi trường thể hiện trong số chi cho đầu tư phát triển, nhiều dự án quan trọng có tác động trực tiếp đến BVMT như xử lý nước thải, xây dựng, nâng cấp đường giao thông... Và còn khoản kinh phí sự nghiệp môi trường do UBND tỉnh trình cấp có thẩm quyền bố trí với mức không thấp hơn 1% tổng chi NSNN trong dự toán ngân sách hàng năm.
Và theo Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 thì một trong các giải pháp thực hiện là tăng dần tỷ lệ chi thường xuyên từ NSNN cho BVMT, phấn đấu đạt 2% tổng chi ngân sách.
Xin cảm ơn ông!