Xuất khẩu nông sản tìm đường chính ngạch
Gỡ khó cho xuất khẩu nông sản | |
Xuất khẩu nông sản đối mặt thách thức | |
Xuất khẩu nông sản chế biến ngày càng khó |
Trước lo ngại việc nhập khẩu thịt lợn ảnh hưởng tới tình hình tiêu thụ trong nước, vừa qua ông Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương đã khẳng định, đây là điều vô căn cứ.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2016 cả nước nhập khẩu khoảng 39.400 tấn thịt lợn và các loại sản phẩm liên quan đến thịt lợn từ các nước EU, Hoa Kỳ, Canada, Brazil… Kim ngạch nhập khẩu chỉ tương đương 0,1% sản lượng tiêu thụ thịt lợn trong nước. Vì vậy có thể khẳng định, thịt nhập khẩu không phải nguyên nhân gây ra tình trạng dư thừa thịt lợn trong thời gian vừa qua. Ông Hải cũng lưu ý, giá thịt lợn nhập khẩu đắt hơn rất nhiều so với sản phẩm trong nước, vì vậy đại đa số người dân không có nhu cầu tiêu thụ loại thịt này.
Về hoạt động tạm nhập tái xuất, riêng trong năm 2016 với mặt hàng thịt lợn, chúng ta chỉ nhập khoảng 20 triệu USD, cũng không phải nhập vào tiêu thụ ở Việt Nam mà tạm nhập vào để xuất đi nước khác. Hiện nay, Ban chỉ đạo chống buôn lậu rất quan tâm tới việc kiểm soát mặt hàng này và nhất trí rằng nếu Chính phủ đồng ý thì trước mắt sẽ có biện pháp tạm ngừng hoạt động tạm nhập tái xuất để ổn định thị trường trong nước. Tuy nhiên, “như tôi đã nói, số liệu thực tế từ tạm nhập tái xuất không cao và hầu như không ảnh hưởng tới thị trường trong nước”, ông Hải cho biết.
Ảnh minh họa |
Khẳng định lại nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng giá thịt lợn đang diễn ra hiện nay là do phía Trung Quốc ngừng thu mua, ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhấn mạnh, để “giải cứu” nông sản, giải pháp chủ yếu vẫn phải là mở rộng thị trường xuất khẩu. Ông Nam cho hay, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu thịt lợn rất lớn của Việt Nam, song 4 tháng đầu năm nay, lượng xuất khẩu vào quốc gia này chỉ còn khoảng 10% so với năm ngoái, nên ảnh hưởng mạnh tới tiêu thụ thịt lợn trong nước.
Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho biết thêm, mặc dù đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do để mở cửa cho hàng nông sản vào nhiều thị trường, song tới nay chỉ có duy nhất thị trường châu Á, mà cụ thể là Hong Kong và Malaysia có ký hiệp định về thú y và chứng nhận xuất khẩu thịt lợn với Việt Nam. Tuy nhiên nhưng với 2 thị trường này, tới nay chúng ta cũng mới chỉ xuất khẩu được loại lợn sữa nặng khoảng 20-30kg, sản lượng xuất khẩu cũng rất nhỏ, chủ yếu qua đường tiểu ngạch.
Vì vậy, theo ông Hải, việc đầu tiên để giải quyết tình trạng dư thừa là phải thúc đẩy xuất khẩu, ký kết các hiệp định về chứng nhận thú y, kiểm dịch để sản phẩm nông sản vào các thị trường khác, đặc biệt là Trung Quốc.
Theo các chuyên gia, việc xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc thời gian qua liên tục gặp trục trặc một phần là do DN trong nước chưa nhìn nhận được hết tiềm năng của thị trường này. Thậm chí DN còn cho rằng làm ăn với Trung Quốc có nhiều nguy cơ hơn là tiềm năng. Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long phân tích, Trung Quốc và Việt Nam có quan hệ buôn bán, hoạt động thương mại thân thiết nhờ điều kiện địa lý gần, dễ dàng trong vận chuyển, giao thương, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông, thủy hải sản.
Đây là thị trường có hình thức vận tải hàng hoá đa dạng, tiện lợi nhất, giúp DN tiết giảm được nhiều chi phí, gồm đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không. Thứ hai, đây là thị trường khá dễ tính, không đòi hỏi quá khắt khe về quy trình cũng như chất lượng sản phẩm như Mỹ hay các thị trường châu Âu. Tuy nhiên cũng vì lý do này mà DN ngại tìm các kênh chính ngạch, bằng lòng với đường tiểu ngạch, khiến xuất nhập khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn nhưng chủ yếu qua tiểu ngạch nên rủi ro càng cao.
Trong khi đó theo nhận định của các cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam tại Trung Quốc, người tiêu dùng tại đây có nhu cầu rất lớn về các mặt hàng nông sản. Quan trọng là DN cần tìm đường xuất khẩu chính ngạch vào các cảng biển lớn của Trung Quốc, cần tích cực tham gia các hội chợ nông sản để tìm khách hàng lớn, tin cậy.