6 vấn đề của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
Cầu Nhật Tân, một công trình giao thông quan trọng của Thủ đô Hà Nội. |
Theo ghi nhận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn 2016-2018, môi trường đầu tư kinh doanh của Vùng tiếp tục được hoàn thiện, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cao; công tác cải cách hành chính, tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công được các địa phương trong vùng chú trọng.
Nhờ đó, số lượng doanh nghiệp trong Vùng tăng trưởng mạnh, thu hút đầu tư trong và ngoài nước đạt khá (năm 2018, Hà Nội thu hút được 7,5 tỷ USD vốn FDI, lần đầu tiên dẫn đầu cả nước về số vốn đăng ký cấp mới)... Với những động lực từ cải cách, thúc đẩy đầu tư kinh doanh như trên tăng trưởng kinh tế toàn Vùng là khá ấn tượng.
GRDP bình quân 2016-2018 đạt 9,08%
Theo Quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 25/1/2014 của Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu tăng trưởng GRDP bình quân của Vùng giai đoạn 2016-2020 đạt 9%, gấp 1,25 lần bình quân chung của cả nước; GRDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 5.500 USD.
Trên thực tế, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân 3 năm 2016-2018 của Vùng đạt 9,08%, cao nhất trong số 4 vùng và vượt mục tiêu đề ra tại Quyết định số 198. Tuy nhiên, tổng GRDP của vùng đến năm 2018 chiếm tỉ trọng khoảng 31,73% GRDP của cả nước và chiếm 35,52% GRDP của 4 vùng kinh tế trọng điểm, vẫn đứng thứ hai sau Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (45,42%). Trong đó, Hà Nội dẫn đầu toàn Vùng, đóng góp 16,96% về GRDP cả nước.
GRDP bình quân đầu người của vùng cũng tăng từ 4.164 USD năm 2016 lên 4.813 USD năm 2018, gấp 1,86 lần so với mức trung bình cả nước và đứng thứ hai sau Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Cùng với đó, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm thấp nhất trong GRDP so với các vùng kinh tế trọng điểm khác, trong khi khu vực dịch vụ có tỷ trọng cao nhất trong GRDP so với các vùng khác; cả hai khu vực này đều vượt mục tiêu đề ra tại Quyết định số 198.
Một số địa phương có tỷ trọng khu vực dịch vụ lớn trong GRDP như Hà Nội (64%, cao nhất cả nước), Hải Phòng (44,05%). Đến năm 2018, tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 3,71% trong cơ cấu kinh tế Vùng.
Ngành công nghiệp - xây dựng tiếp tục là trụ cột tăng trưởng của vùng và tập trung đều vào tất cả các địa phương, thu hút được nhiều dự án đầu tư quy mô lớn, quan trọng tại một số tỉnh, thành phố của vùng như Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Phòng.
Giai đoạn 2016-2018, ngành công nghiệp - xây dựng của vùng đóng góp gần 40% GDP của cả nước và tập trung chủ yếu từ các ngành công nghiệp mũi nhọn như: điện, điện tử, lắp ráp ô tô, đóng tàu, dệt may, công nghiệp phụ trợ.
Ngành dịch vụ có mức tăng trưởng mạnh nhất trong cơ cấu kinh tế của Vùng. Đến năm 2017, khu vực dịch vụ của Vùng đóng góp vào tăng trưởng GRDP là 3,73 điểm phần trăm, cao nhất trong các vùng kinh tế trọng điểm.
Giai đoạn 2016-2018, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Vùng đạt 25,6% và chiếm tỷ trọng 32% xuất khẩu của cả nước, vượt 2 năm mục tiêu đề ra tại Quyết định 198. Trong giai đoạn 2016-2018, kim ngạch xuất khẩu của vùng tăng 57%, từ 49,6 tỷ USD năm 2016 lên tới 78,1 tỷ USD năm 2018, cao hơn nhiều mức tăng của cả nước giai đoạn này là 38%...
6 vấn đề của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội vùng cũng còn không ít tồn tại, khó khăn, trong đó đặc biệt có 6 vấn đề cần khắc phục.
Thứ nhất, ngành dịch vụ hiện đang là ngành mũi nhọn và đóng góp lớn vào kinh tế của vùng nhưng tốc độ tăng trưởng của ngành chưa bền vững.
Thứ hai, cả 7/7 tỉnh, thành phố của Vùng đều định hướng phát triển công nghiệp điện tử, phần cứng nhưng chỉ có Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh đã thu hút được các công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Samsung, LG, Microsoft, Canon,... và cũng mới chỉ dừng lại chủ yếu gia công, lắp ráp phần cứng với giá trị gia tăng thấp, các sản phẩm công nghệ cao gắn với việc phát triển các trung tâm nghiên cứu phát triển (R&D) còn rất hạn chế.
Công nghiệp phần mềm và nội dung số chỉ mới tập trung tại thành phố Hà Nội nhưng năng lực cạnh tranh còn thấp, quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước.
Thứ ba, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của vùng giai đoạn 2016-2018 đạt 426,4 tỷ USD nhưng vùng không đóng góp trong thặng dư cán cân thương mại chung (cả nước xuất siêu giai đoạn 2016-2018 đạt 10,69 tỷ USD) mà nhập siêu 40,781 tỷ USD.
Ngoài ra, tăng trưởng xuất khẩu chưa bền vững, năm 2017 xuất khẩu tăng 31,2% so với năm 2016, đến năm 2018 chỉ tăng 20% so với năm 2017.
Thứ tư, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) một số địa phương trong vùng vẫn chỉ ở mức trung bình thấp của cả nước, còn dư địa tiếp tục cải thiện để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
Thứ năm, mặc dù số doanh nghiệp đăng ký mới vẫn đứng thứ 2 cả nước nhưng xét về quy mô vốn thì các doanh nghiệp trong Vùng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các dự án FDI thâm dụng lao động chiếm tỷ lệ cao trong Vùng.
Thứ sáu, các lĩnh vực khác như thu ngân sách, vấn đề dân số, nhập cư… cũng còn không ít vấn đề cần lưu ý. Đặc biệt, phát triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường, tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên.