Bài 1: Phát triển kinh tế xanh - xu thế không thể đảo ngược
Tìm giải pháp để phát triển điện khí, điện gió ngoài khơi và Hydrogen Việt Nam sớm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng xanh Cần giải pháp đột phá phát triển điện khí, điện gió |
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam và Singapore chứng kiến trao nhận giấy phép khảo sát cho dự án điện gió ngoài khơi tại Việt Nam cho liên danh PTSC - Sembcorp |
Trong bối cảnh ngành năng lượng đang trải qua những thay đổi mang tính bước ngoặt, xu thế chuyển dịch năng lượng không thể đảo ngược, giảm phát thải, phát triển kinh tế xanh, đã đặt ra nhiều yêu cầu cấp thiết cho hoạt động của ngành Dầu khí Việt Nam nói chung, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) nói riêng.
Không gian phát triển mới
Tại Hội nghị Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26), Thủ tướng Chính phủ cũng đã thể hiện quyết tâm chính trị trước toàn thế giới thông qua tuyên bố Việt Nam sẽ nỗ lực đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Để thực hiện cam kết này, đặt ra nhiều yêu cầu về chuyển đổi mô hình phát triển hướng tới kinh tế xanh, tuần hoàn, bền vững.
Trong tình hình mới, để khai thác tối đa hiệu quả tiềm năng, kinh nghiệm, nền tảng hiện có của tập đoàn năng lượng hàng đầu quốc gia Petrovietnam; nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và thúc đẩy phát triển các nguồn năng lượng mới, năng lượng xanh, ngày 24/4/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tình hình thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 và một số định hướng cho giai đoạn mới.
TS Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương cho rằng, Kết luận số 76-KL/TW đã mở ra một không gian phát triển mới cho Petrovietnam thông qua việc định hướng những chủ trương khai thác các điều kiện, tiềm năng của ngành trong phát triển về lĩnh vực NLTT, năng lượng mới.
Kết luận số 76-KL/TW định hướng phát triển Petrovietnam trở thành một tập đoàn công nghiệp - năng lượng quốc gia, song song với việc phát triển các lĩnh vực truyền thống của ngành Dầu khí; đồng thời cũng xác định vai trò chủ lực tiên phong của Tập đoàn trong phát triển các lĩnh vực về NLTT, năng lượng mới. Điển hình là phát triển điện gió ngoài khơi, điện gió ven biển, các hoạt động về phát triển lĩnh vực hydrogen, amoniac, tham gia vào chuỗi nhập khẩu cung ứng LNG. Cùng với đó, gắn trọng trách của Petrovietnam trong phát triển lĩnh vực về công nghiệp sản xuất thiết bị năng lượng, đặc biệt là NLTT và năng lượng mới.
Với hơn 3.200 km bờ biển và tổng diện tích biển khoảng 1 triệu km2, Việt Nam có tiềm năng phát triển NLTT ngoài khơi lớn nhất khu vực Đông Nam Á, lên tới 599 GW. Khi nguồn năng lượng mới này được khai thác hiệu quả, Việt Nam có thể kết hợp các mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội, an ninh năng lượng, an ninh quốc phòng, chủ quyền biển đảo, công nghiệp hóa với phát thải carbon thấp, hướng đến mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
Kết luận số 76-KL/TW đã mở ra con đường lớn giúp Petrovietnam có thể chủ động xây dựng chiến lược, lộ trình phát triển ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi, góp phần đưa Việt Nam sớm trở thành nước làm chủ công nghệ, có chuỗi cung ứng hoàn chỉnh để cạnh tranh trên trường quốc tế, nắm bắt tốt các cơ hội vàng, vươn lên phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực năng lượng sạch.
Ông Trần Lưu Quang, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Thủ tướng Chính phủ cũng cho biết, trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh những khó khăn, thách thức, đồng thời cũng mở ra một cơ hội lớn cho ngành dầu khí nếu chúng ta kịp thời nắm bắt và phát huy được thế mạnh về kinh nghiệm, năng lực hạ tầng, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng như hiện nay, cần chú trọng phát huy tiềm năng, lợi thế của ngành để phát triển NLTT, năng lượng mới, coi đây là hướng phát triển mang tính đột phá để đảm bảo phát triển ngành dầu khí bền vững, hiện đại gắn với thúc đẩy nhanh chuyển đổi xanh, chuyển đổi số. Cùng với đó, phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo tiên tiến, hiện đại theo hướng nâng cao năng lực tự chủ, tự cường, tăng cường tỷ lệ nội địa hóa; quan tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với chính sách thu hút nhân tài, đào tạo chuyên sâu đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn quốc tế để phát triển ngành dầu khí trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Lãnh đạo Petrovietnam giới thiệu với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về khả năng tham gia vào lĩnh vực điện gió ngoài khơi |
Xu hướng tất yếu
Trước những yêu cầu cấp bách về chống biến đổi khí hậu và cam kết đạt Net Zero của các quốc gia và các tập đoàn lớn, thế giới đang ghi nhận sự dịch chuyển mạnh mẽ sang phát triển NLTT để thay thế dần nguồn năng lượng hóa thạch. Trong xu thế đó, các tập đoàn dầu khí lớn đã và đang tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào chương trình phát triển nguồn NLTT, giảm dần danh mục đầu tư các dự án năng lượng hóa thạch.
Trong đó, điện gió ngoài khơi nổi lên như một trong những lĩnh vực có tiềm năng phát triển lớn nhất. Hiện nay, các nhà đầu tư hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực này hầu hết là các tập đoàn dầu khí lớn, như Equinor, Shell, Repsol, Total, BP, Chevron, CNOC… Trong đó, có những công ty, như Orsted (Đan Mạch), đã chuyển hoàn toàn sang các dự án NLTT. Orsted hiện đã lắp đặt khoảng 9.000 MW điện gió ngoài khơi và đặt mục tiêu đạt 50.000 MW công suất lắp đặt vào năm 2030. Equinor (Na Uy) cũng giảm dần tỷ trọng dầu khí và tăng dần tỷ trọng NLTT. Hiện Equinor có gần 12.000 MW ĐGNK đang phát triển, trong đó một số dự án đã được đưa vào vận hành. Tại Đông Nam Á, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Malaysia (Petronas) đã lập công ty NLTT Gentari và mua 29,4% cổ phần dự án ĐGNK Hải Long tại Đài Loan (Trung Quốc).
Cùng trong xu thế đó, Việt Nam với độ mở kinh tế, hội nhập toàn cầu cao, đã đặt các mục tiêu và xây dựng kế hoạch để phát triển ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi.
Theo Quy hoạch điện VIII được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt vào tháng 5/2023, đến năm 2030, công suất điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu điện trong nước đạt khoảng 6.000 MW; quy mô có thể tăng thêm trong trường hợp công nghệ phát triển nhanh, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý. Định hướng đến năm 2050, tổng công suất điện gió ngoài khơi đạt 70.000 - 91.500 MW.
Việc đặt ra các mục tiêu tham vọng về phát triển ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho Việt Nam. Việc phát triển ĐGNK góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, giảm nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch; đồng thời tạo ra nhiều việc làm mới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế biển cũng như phát triển hạ tầng công nghiệp năng lượng, góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng ở Việt Nam.
Để có thể phát triển điện gió ngoài khơi với quy mô lớn, các tập đoàn dầu khí đa quốc gia đóng vai trò rất quan trọng. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), ngành công nghiệp dầu khí với kinh nghiệm triển khai các dự án ngoài khơi sẽ góp phần chia sẻ chuỗi cung ứng và công nghệ, đóng vai trò quan trọng trong việc biến điện gió ngoài khơi sớm trở thành một ngành công nghiệp lớn.
Theo đánh giá của TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam, những kinh nghiệm trong hoạt động thăm dò, khai thác, thiết kế, thi công chế tạo các công trình biển, dịch vụ ngoài khơi, cơ sở vật chất, nguồn lực con người, những thông tin, hiểu biết về khí tượng, thủy văn, địa chất, hóa học biển… là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong ngành dầu khí tham gia vào lĩnh vực NLTT ngoài khơi. Việc này cũng góp phần tối ưu đầu tư, tránh lãng phí nguồn lực quốc gia, gia tăng hiệu quả, giảm giá thành sản xuất.
Đồng quan điểm trên, TS. Ngô Đức Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) cho rằng, ở Việt Nam, các doanh nghiệp có khả năng tham gia vào các dự án điện gió ngoài khơi phải là những tập đoàn, tổng công ty lớn, có kinh nghiệm và tiềm lực tài chính mạnh mẽ. Hiện nay có Petrovietnam và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là đủ khả năng thực hiện thí điểm phát triển các dự án này. Petrovietnam là doanh nghiệp Nhà nước có tiềm lực lớn, uy tín, có kinh nghiệm trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là dầu khí ngoài khơi; có công nghệ, khả năng thu xếp vốn thuận lợi hơn so với các doanh nghiệp khác. Đặc thù của Petrovietnam là hoạt động trong lĩnh vực khai thác dầu khí với địa điểm hoạt động trên biển là chính. Petrovietnam và các đơn vị thành viên được cho là có lợi thế nhất tại Việt Nam khi thực hiện các công trình trên biển từ nhiều khía cạnh, như điều tra số liệu, quan hệ quốc tế, nhân lực làm ngoài biển, chế tạo, vận hành và cả an ninh - quốc phòng.