Bỏ tư duy cũ để phát triển
Không thể hội nhập từ sản xuất manh mún | |
ĐBSCL: Gần 28.500 tỷ đồng cam kết cho vay 73 dự án | |
Phát huy tối đa các thế mạnh vùng |
Ảnh minh họa |
ĐBSCL với diện tích đất tự nhiên khoảng 3,96 triệu ha, chiếm khoảng 12% diện tích, 22,8% về dân số, là địa bàn rộng và đông dân cư đứng thứ 2 trong tất cả các vùng kinh tế của cả nước.
Hàng năm, ĐBSCL đóng góp 55% sản lượng lương thực, cung cấp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu, 70% lượng trái cây, 58% sản lượng thủy sản, riêng tôm chiếm 80% và đóng góp trên 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của quốc gia....
Tuy nhiên, khi bàn về lý do tại sao khu vực này mặc dù có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên, trong những năm qua luôn nhận được sự quan tâm, ưu đãi của Nhà nước về chính sách nhưng đến nay vẫn trong tình trạng “ì ạch”, và chưa tận dụng được các lợi thế sẵn có, ông Trần Công Chánh, Bí thư tỉnh Hậu Giang đã thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân của vấn đề này tại một Hội nghị về Hợp tác kinh tế vùng ĐBSCL diễn ra mới đây.
Đó là do tăng trưởng kinh tế trong khu vực thiếu vững chắc, tiềm năng và lợi thế chưa được đầu tư, khai thác đúng mức, kinh tế phát triển chủ yếu theo chiều rộng.. Nhất là cho đến nay, ĐBSCL vẫn chưa thực sự có một chính sách đồng bộ, cũng như một cơ chế đặc thù cho vùng.
Để minh chứng cho vấn đề này, ông Chánh chỉ ra một thực trạng, do quy hoạch chưa đồng bộ, cơ chế thiếu rõ ràng, sự quyết tâm, đồng thuận của lãnh đạo chưa đủ lớn nên đã dẫn đến hiện tượng tự cạnh tranh lẫn nhau giữa các tỉnh, thành trong vùng.
Hiện nay tại khu vực ĐBSCL, về cơ sở hạ tầng chung đã có sân bay quốc tế Cần Thơ, bến cảng quốc tế Cái Cui và 4 tuyến đường bộ quốc gia (Quốc lộ 1A, Quốc lộ 61, Quốc lộ 61B, Quốc lộ 61C), cùng các đường tỉnh lộ, liên tỉnh quan trọng khác.
Ngoài ra, mạng lưới sông ngòi rất thuận lợi với trục giao thông thủy quan trọng như Kinh xáng Xà No, kinh Quản lộ Phụng Hiệp là đường thủy quốc gia từ TP. HCM xuyên đồng bằng đổ ra biển Tây, nối các tỉnh ĐBSCL đi Campuchia, các nước Đông Nam Á...
Tuy nhiên, không ít lãnh đạo tại các địa phương trong khu vực vẫn có suy nghĩ “con gà tức nhau tiếng gáy”, mà không chịu nhìn nhận thế mạnh, điểm yếu của tỉnh mình là gì để tập trung phát huy hoặc khắc phục. “Và nếu cứ giữ tư duy kiểu mạnh ai nấy làm sẽ chẳng khác gì tự dìm nhau trong ao nhà, chứ chưa nói gì ra biển lớn khi hội nhập quốc tế đã sát sườn” – ông Chánh nói.
Đồng tình với quan điểm này, nhiều chuyên gia cho rằng, liên kết vùng là chiến lược rất quan trọng mang tầm quốc gia. Vì vậy, cần có sự chỉ đạo thống nhất và mang tính dài hạn. Đây là một bài toán không hề dễ. Đối với quy hoạch tổng thể cho ĐBSCL, cần xác định rõ thế mạnh cụ thể của từng vùng, mỗi khu vực có một tỉnh đảm nhận vai trò trung tâm.
Chẳng hạn như vùng Tứ giác Long Xuyên chuyên về lúa (tỉnh Đồng Tháp); bán đảo Cà Mau mạnh về thủy, hải sản, du lịch (Kiên Giang); còn Nam sông Hậu có cây ăn trái (Tiền Giang)...
Thậm chí, một số tỉnh thành phải xác định ngay từ đầu là địa phương mình chỉ làm “đại lý” cung ứng nguyên liệu, dịch vụ cho các tỉnh, thành khác để từ đó xây dựng được thương hiệu chung cho toàn vùng, với đầy đủ những đặc trưng riêng của ĐBSCL.
Đánh giá vấn đề ở một khía cạnh khác, ông Trần Hữu Hiệp, Vụ trưởng Vụ Kinh tế (Ban chỉ đạo Tây Nam bộ) đưa ra nhận định, muốn ĐBSCL có thể “cất cánh”, cần phải bắt tay ngay từ những việc làm hiệu quả và thiết thực.
Trước tiên, ĐBSCL cần điều chỉnh lại quy hoạch vùng, và để hiện thực hóa được điều này phải có những nghiên cứu cơ bản, xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học vùng về tài nguyên đất, nước, rừng, biển…
Từ đó làm nền tảng phân ra các tiểu vùng và hình thành liên kết vùng, kết nối không gian phát triển và sản xuất, từ đó kết nối sản xuất đến tiêu thụ thị trường, thu hút DN.
Điều này đòi hỏi sự kết nối thể chế và phối hợp chính sách mang tính “pháp định hoá”, tạo ra hiệu lực chỉ huy thống nhất cấp vùng. Các địa phương trong vùng phải có sự đồng thuận về tư duy, tầm nhìn, và xác định rõ lợi ích của vùng là tiền đề, điều kiện thực hiện các lợi ích của mỗi địa phương.