Không thể hội nhập từ sản xuất manh mún
Ngân hàng có đủ vốn cho dự án có hiệu quả | |
Mở rộng nguồn vốn cho Tây Nam bộ | |
ĐBSCL: Gần 28.500 tỷ đồng cam kết cho vay 73 dự án |
PHÓ THỐNG ĐỐC NHNN VIỆT NAM ĐÀO MINH TÚ: Ngân hàng có đủ vốn cho dự án hiệu quả Trước một số ý kiến của DN liên quan tới lĩnh vực NH về tín dụng, tỷ giá, lãi suất, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, trong 3 năm qua, trong số 44 văn bản liên quan tới hoạt động tín dụng nông nghiệp, nông thôn mà NHNN ban hành hoặc NHNN tham mưu cho Chính phủ ban hành thì có tới 24 văn bản liên quan tới khu vực ĐBSCL. Điều đó cũng nói lên rằng, ĐBSCL được xem như vùng trọng tâm phát triển kinh tế, nên phải tháo gỡ kịp thời. Vấn đề đầu tiên là giải quyết bài toán về vốn. Hiện nay vốn huy động tại chỗ chỉ khoảng 80%, còn lại là từ địa phương khác và trung ương chuyển về. Rõ ràng nhu cầu vốn ở khu vực ĐBSCL là rất lớn. Về phía NHNN chúng tôi có nhiều giải pháp tích cực và có thể khẳng định NH có đủ vốn cho dự án có hiệu quả. Về lãi suất - vấn đề được các DN quan tâm nhiều, thì hiện nay lãi suất đã giảm một nửa so với 5 năm trước. Lãi suất hiện đang được xem là phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát mà Quốc hội đặt ra dưới 5%. Với quan điểm giảm lãi suất đầu ra nhưng không giảm lãi suất đầu vào để cân đối cho người gửi tiền, đặt gánh nặng lên vai NH với việc phải tiếp tục tiết kiệm chi phí. Tại hội nghị đối thoại DN diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh, Thủ tướng đã chỉ đạo các NHTM giảm 1% lãi suất, do đó, mặc dù khó khăn nhưng NH vẫn đặt ra mục tiêu giảm lãi suất cho DN. Về thủ tục vay vốn, các NHTM rất tích cực, vì sự cạnh tranh gay gắt giữa các NH, muốn giữ khách hàng thì phải thuận lợi trong thủ tục. Quan điểm của NHNN là các NHTM đổi mới, cải tiến thủ tục, công khai thủ tục vay vốn. Riêng với ĐBSCL, giải quyết về thu mua lương thực, thu mua cá, chế biến, cho vay theo chuỗi giá trị, tín dụng xanh... đến nay, NHNN đều có chỉ đạo các TCTD thực hiện tốt các chính sách tín dụng này. Ngành Ngân hàng vẫn đau đáu, bởi khu vực ĐBSCL mới chỉ có dư nợ gần 400.000 tỷ đồng, chưa tương xứng với vùng, mặc dù điều kiện thiên nhiên, đất đai ở đây màu mỡ. Phải chăng do thiếu dự án, thiếu cơ chế chính sách để họ đầu tư? Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 593 về liên kết vùng sẽ mở ra cơ hội trong thời gian tới với các tỉnh ĐBSCL. Cách đây hai năm NHNN đã cho vay liên kết chuỗi giá trị sản phẩm, tạo ra vùng sản xuất, từ nhà chế biến đến tiêu thụ. Với chương trình cho vay này, NH tạo ra dòng tiền tích cực hơn, hiệu quả hơn, từ đó, dòng tiền sẽ tạo sự gắn kết, sự liên kết chặt chẽ hơn. Tới đây, chúng tôi sẽ sơ kết hai năm thực hiện chương trình cho vay thí điểm theo chuỗi liên kết tại khu vực ĐBSCL, rút kinh nghiệm, hoàn thiện thể chế, chính sách, để triển khai cho vay hiệu quả hơn trong thời gian tới. |
Thiếu sự kết nối giữa các DN
Với mong muốn đưa khu vực ĐBSCL phát triển mạnh trong thời gian tới, trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) năm 2016, diễn ra từ ngày 11 – 15/7, tại TP. Vị Thanh (Hậu Giang) nhiều hội thảo, diễn đàn đã được tổ thức. Sau Hội thảo: “Hoạt động tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL”, một diễn đàn lớn cho DN vùng ĐBSCL được tổ chức ngày 13/7, nhằm tìm giải pháp để DN trong khu vực phát triển, kinh doanh hiệu quả.
Khu vực ĐBSCL mới chỉ có dư nợ gần 400.000 tỷ đồng, chưa tương xứng với vùng |
Ông Lê Hùng Dũng – Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, dẫn số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài cho thấy: toàn vùng đã thu hút được 79 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký 987,42 triệu USD. Lũy kế số dự án còn hiệu lực đến ngày 20/6/2016 là 1.248 với tổng số vốn trên 18,9 tỷ USD. Từ đầu năm đến ngày 15/6, toàn vùng có 3.880 DN đăng ký mới với tổng vốn đăng ký 39.879 tỷ đồng, tăng 9,2% về số DN và 128% về vốn đăng ký. Số DN quay trở lại hoạt động là 1.694 DN, tăng 120% và đứng đầu trong 6 vùng kinh tế cả nước. Đến nay, toàn vùng hiện có khoảng 74.500 DN đang hoạt động với tổng vốn đăng ký khoảng 605 nghìn tỷ đồng.
Ông Dũng cho rằng, mặc dù đã có nhiều tiến bộ, song nhìn chung DN ở ĐBSCL đa số vẫn là những DNNVV, sức cạnh tranh còn yếu. Do đó, muốn tồn tại và phát triển, cùng với các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, địa phương thì còn cần sự nỗ lực của mỗi DN, nhất là sự liên kết, hợp tác giữa các DN. Từ góc độ của “người trong cuộc”, ông Phạm Thanh Bình – Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thực phẩm Bích Chi cho rằng, sự liên kết hiện nay đang làm theo phong trào, còn lỏng lẻo. Chẳng hạn, ĐBSCL vốn là vựa lúa nên “thừa” gạo vì việc sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn từ gạo còn khó khăn. Một trong những nguyên nhân là do liên kết giữa các nhà chưa chuyên nghiệp dẫn tới nơi thừa vẫn thừa, nơi thiếu vẫn thiếu.
Đồng quan điểm này, ông Võ Tân Thành – Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các tỉnh, thành, địa phương trong vùng nhằm phân bổ và tạo ra những “đặc sản riêng” của từng địa phương, các sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, trùng lắp, thiếu sự đồng bộ và chuyên nghiệp.
Tư duy hội nhập phải thay đổi
Nhìn từ góc độ cải thiện môi trường kinh doanh, PGS.TS Trần Đình Thiên – Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, trong thời gian qua, dễ nhận thấy xu hướng chung là các tỉnh vùng ĐBSCL đều có những thay đổi tích cực, tuy nhiên, kết quả đạt được là khá khác nhau. Có thể xác nhận điều này phần nào qua sự thay đổi chỉ số PCI (chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh). Rõ ràng Đồng Tháp đã có những bước tiến vượt bậc về PCI. Tiếp đó là Long An, Kiên Giang, Bến Tre, Cần Thơ.
Tuy nhiên, một số tỉnh như Trà Vinh, Tiền Giang, Cà Mau lại chưa có sự chuyển dịch mong đợi. “Ngoại trừ Cần Thơ có điều kiện nổi trội hơn, còn lại các tỉnh đều có khó khăn giống nhau, môi trường kinh doanh giống nhau nhưng tại sao Đồng Tháp có sự hội nhập mạnh mẽ hơn. Phải chăng tỉnh nào có tư duy hội nhập mạnh, có hành động liên kết phát triển quyết liệt, chọn hội nhập, liên kết làm mục tiêu, tạo áp lực và động lực cải cách thể chế và tái cơ cấu thì tỉnh đó có chỉ số PCI tốt hơn” – ông Thiên đặt vấn đề và cho rằng, có thể hạn mặn gây ra khó khăn nhưng cần phải xác định hạn mặn không phải là bất thường mà sẽ kéo dài, từ đó bản thân các địa phương và DN phải có chiến lược dài hơi.
Theo các chuyên gia kinh tế, thách thức với ĐBSCL là chúng ta đang bước vào giai đoạn hội nhập mạnh mẽ, do đó cần phải có sự thay đổi lớn về cách thức sản xuất, kinh doanh. Mặc dù được coi là vựa lúa lớn nhất cả nước, nhưng chất lượng lúa gạo vùng chưa đồng đều giữa các tỉnh, thành. Do đó, tư duy hội nhập cũng phải thay đổi, không thể hội nhập với phương thức sản xuất manh mún. Đối với vùng ĐBSCL, trụ cột của sự thay đổi ở đây gồm có: tái định hướng cơ cấu – công nghệ; định vị lại cấu trúc chủ thể phát triển – là DN với trục chính là khu vực tư nhân.
PGS. TS. Trần Đình Thiên gợi ý: phải đánh giá đúng xu thế và triển vọng thay đổi các điều kiện và lợi thế phát triển cơ bản vùng trong sự tiến triển của quá trình thay đổi, nhưng phải trong logic tổng thể và tầm nhìn dài hạn như thay đổi lối sống. Đồng thời đánh giá tác động của hội nhập quốc tế hiện đại đến sự phát triển của vùng trong bối cảnh sự thay đổi các điều kiện và lợi thế phát triển. Vai trò của chủ thể trong sản xuất phải thay đổi, trên nền tảng của người nông dân, thì DN phải trở thành lực lượng dẫn dắt nông nghiệp…
GS.TS Bùi Chí Bửu – Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam cho rằng, nông hộ nhỏ khó tiếp cận thông tin thị trường nên khả năng cạnh tranh yếu, tiếp cận khoa học công nghệ cũng thấp nên họ thường chịu nhiều thua thiệt trong kinh tế thị trường. “Chúng ta cần phải có những bước đột phá mới, trong đó sự năng động của DN cần được nhấn mạnh đặc biệt” – ông Bửu nói.