Điểm lại thông tin kinh tế ngày tuần 3 - 7/11
| Điểm lại thông tin kinh tế ngày 6/11 Tốc độ tăng GDP quý IV phải đạt trên 8,4% để hoàn thành mục tiêu cả năm |
![]() |
| Điểm lại thông tin kinh tế |
Tổng quan
Mặc dù bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, trong nước tình hình thiên tai, lũ lụt liên tiếp xảy ra song kinh tế vĩ mô tháng 10 vẫn duy trì ở mức cân bằng với nhiều điểm sáng tích cực.
Xuất khẩu nông lâm thủy sản có thể vượt kế hoạch năm. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản trong tháng 10/2025 ước đạt 5,96 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ tháng 10/2024. Lũy kế 10 tháng năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 58,13 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ. Trong đó, giá trị xuất khẩu nhóm nông sản đạt 31,34 tỷ USD, tăng 15,5%; sản phẩm chăn nuôi đạt 512,9 triệu USD, tăng 19%; thủy sản đạt 9,31 tỷ USD, tăng 12,9%; lâm sản đạt 14,93 tỷ USD, tăng 5,8%.
Về thị trường, Trung Quốc đã vượt qua Hoa Kỳ để trở thành thị trường đứng đầu, chiếm 21,4% tổng thị phần xuất khẩu nông lâm thuỷ sản của Việt Nam. Tiếp theo là Hoa Kỳ với 20,4% và Nhật Bản với 7%. So với cùng kỳ năm 2024, xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 12%, sang Hoa Kỳ tăng 6,2% và sang Nhật Bản tăng 20,4%. Với kết quả 10 tháng, dự báo xuất khẩu nông lâm thuỷ sản cả năm 2025 sẽ vượt mục tiêu đề ra là 65-67 tỷ USD, kỳ vọng có thể cán mốc kỷ lục 70 tỷ USD.
Sản xuất công nghiệp có tín hiệu tích cực ngay đầu quý 4. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10 ước tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo giữ vai trò động lực chính của tăng trưởng với mức tăng 11,4%. Bên cạnh đó, ngành khai khoáng tăng 3,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 11%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,2%. Tính chung 10 tháng năm 2025, IIP tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Ngành chế biến, chế tạo tăng 10,5%, đóng góp 8,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Chỉ số nhà quản lý thu mua (PMI) lĩnh vực sản xuất tháng 10 tăng mạnh lên 54,5 điểm, mức cao nhất kể từ tháng 7/2024. Cụ thể, số lượng đơn đặt hàng mới tăng tháng thứ 2 liên tiếp, trong đó đáng chú ý là số lượng đơn hàng xuất khẩu mới đã tăng nhẹ trở lại. Các doanh nghiệp cũng thúc đẩy sản lượng và gia tăng tuyển dụng việc làm trở lại sau nhiều tháng tạm ngừng.
Xuất nhập khẩu giảm nhẹ trong tháng 10 song lũy kế từ đầu năm vẫn đạt mức cao. Trong tháng 10/2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 81,49 tỷ USD, giảm 1,2% so với tháng trước và tăng 17,2% so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng năm 2025, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 762,44 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 16,2%; nhập khẩu tăng 18,6 Có 7 mặt hàng xuất khẩu chủ lực trên 10 tỷ USD, điện tử và máy tính, linh kiện đứng đầu với 87 tỷ USD, tăng gần 48% so cùng kỳ; điện thoại và linh kiện đạt 48,6 tỷ USD, tăng 4,7% so cùng kỳ; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 48,4 tỷ USD, tăng 12%...
Tuy nhiên, nhập khẩu các mặt hàng điện tử máy tính, linh kiện cũng đạt mức cao 123 tỷ USD; máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 49,5 tỷ USD, do đó 2 mặt hàng này tiếp tục ghi nhận nhập siêu. %. Cán cân thương mại hàng hóa duy trì xuất siêu 19,56 tỷ USD sau 10 tháng. Trong đó, xuất siêu sang Mỹ đạt 111 tỷ USD, tăng 28,2% so cùng kỳ; xuất siêu sang EU đạt 32,2 tỷ USD, tăng 11,2%; xuất siêu sang Nhật Bản 1,6 tỷ USD, giảm 29,8%; nhập siêu từ Trung Quốc 93,9 tỷ USD, tăng 38,6%; nhập siêu từ Hàn Quốc 25,6 tỷ USD, tăng 1,6%.
Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký mới giảm, giải ngân tăng khá tích cực. Tổng FDI vào Việt Nam tính đến ngày 31/10/2025 (bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài) đạt 31,52 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký cấp mới đạt 14,07 tỷ USD, giảm 7,6% so cùng kỳ; Vốn đăng ký điều chỉnh tăng 12,11 tỷ USD, tăng 45% so cùng kỳ.
Trong 10 tháng, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 3,76 tỷ USD, chiếm 26,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Trung Quốc 3,21 tỷ USD, chiếm 22,8%; đặc khu hành chính Hồng Công (Trung Quốc) 1,38 tỷ USD, chiếm 9,8%. Vốn FDI thực hiện 10 tháng ước đạt 21,3 tỷ USD, tăng 8,8% so cùng kỳ, là mức cao nhất 10 tháng trong 5 năm qua.
Thu ngân sách nhà nước tích cực, chi ngân sách nhà nước vẫn khá chậm: Thu ngân sách nhà nước 10 tháng ước đạt 2145 nghìn tỷ đồng, tương đương 109% dự toán, tăng 28,5% cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa đạt 1842,7 nghìn tỷ đồng, bằng 110,5% dự toán, tăng 32,6% cùng kỳ. Đáng chú ý, thu từ đất tăng mạnh, đạt 451,4 nghìn tỷ đồng, gấp 1,5 lần dự toán và hơn gấp đôi cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, riêng thu tiền sử dụng đất đạt 392,3 nghìn tỷ đồng, tăng 131% so năm 2024. Bên cạnh thu nội địa, thu từ dầu thô tháng 10 ước đạt 3,6 nghìn tỷ đồng; lũy kế 10 tháng đạt khoảng 41 nghìn tỷ đồng, bằng 77% dự toán và giảm 14,9%; Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt gần 260 nghìn tỷ đồng sau 10 tháng, tương đương 110,6% dự toán và tăng 12,8% so cùng kỳ 2024.
Về chi ngân sách nhà nước, tổng chi 10 tháng đạt 1835 nghìn tỷ đồng, bằng 71% dự toán và tăng 32% cùng kỳ. Trong đó, chi thường xuyên đạt 1253 tỷ đồng, bằng 78,4 dự toán, tăng 31% cùng kỳ; chi đầu tư phát triển đạt 491 nghìn tỷ đồng, bằng 62,1% dự toán và tăng 41,9% so cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tiếp tục hồi phục: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 10 tháng tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,8%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,0% (cùng kỳ năm 2024 tăng 4,8%). Trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 14,6% và doanh thu du lịch lữ hành tăng 19,8%, phản ánh hiệu quả kích cầu tiêu dùng và các chính sách, chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch được đẩy mạnh.
Chỉ số giá tiêu dùng tiếp tục được kiểm soát, CPI tháng 10 tăng 0,2% so tháng trước chủ yếu do giá thực phẩm tăng cao (chịu ảnh hưởng bởi mưa bão, lũ lụt); ăn uống ngoài gia đình tăng theo chi phí nguyên liệu đầu vào; và dịch vụ giáo dục ngoài công lập tăng đầu năm học. CPI 10 tháng tăng 2,82% so với tháng 12/2024; tăng 3,25% so với cùng kỳ. CPI bình quân tăng 3,27% so với cùng kỳ; lạm phát cơ bản tăng 3,20%. Nhóm giao thông giảm theo đà giảm của giá dầu thế giới tiếp tục là yếu tố làm giảm CPI trong bối cảnh giá hầu hết các mặt hàng khác điều chỉnh tăng.
Tóm lược thị trường trong nước tuần từ 3 - 7/11
Thị trường ngoại tệ tuần từ 3 - 7/11, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng dần. Chốt ngày 7/11, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 25.103 VND/USD, tăng 10 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
NHNN niêm yết tỷ giá mua USD ở mức 23.898 VND/USD, cao hơn 50 đồng so với tỷ giá sàn; tỷ giá bán giao ngay được niêm yết mức ở mức 26.308 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với tỷ giá trần.
Tỷ giá đô-đồng liên ngân hàng trong tuần tuần từ 3 - 7/11 tăng - giảm đan xen qua các phiên. Kết thúc phiên 7/11, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 26.312 VND/USD, tăng nhẹ 05 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá đô-đồng trên thị trường tự do tuần qua tiếp tục tăng. Chốt phiên 7/11, tỷ giá tự do tăng mạnh 176 đồng ở chiều mua vào và 156 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 27.856 VND/USD và 27.976 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng tuần từ 3 - 7/11, lãi suất VND liên ngân hàng ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống đều tăng khá mạnh. Kết thúc ngày 7/11, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch ở mức: qua đêm 5,90% (+1,32 điểm phần trăm); 1 tuần 6,03% (+0,98 điểm phần trăm); 2 tuần 6,15% (+0,87 điểm phần trăm); 1 tháng 5,9% (+0,25 điểm phần trăm).
Lãi suất USD liên ngân hàng giảm ở tất cả các kỳ hạn qua các phiên trong tuần qua. Chốt phiên 7/11, lãi suất USD liên ngân hàng giao dịch tại: qua đêm 3,91% (-0,12 điểm phần trăm); 1 tuần 3,97% (-0,11 điểm phần trăm); 2 tuần 4,02% (-0,10 điểm phần trăm) và 1 tháng 4,03% (-0,11 điểm phần trăm).
Trên thị trường mở tuần qua tuần từ 3 - 7/11, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu 141.000 tỷ đồng với các kỳ hạn 7 ngày, 14 ngày, 28 ngày và 91 ngày, lãi suất đều giữ ở mức 4,0%. Có 128.667,63 tỷ đồng trúng thầu. Có 72.193,65 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua trên kênh cầm cố.
NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN trong tuần qua.
Như vậy, tuần qua, NHNN bơm ròng 56.473,98 tỷ đồng ra thị trường qua kênh thị trường mở. Có 280.811,64 tỷ đồng lưu hành trên kênh cầm cố.
Thị trường trái phiếu phiên 5/11, Kho bạc Nhà nước đấu thầu thành công 4.180 tỷ đồng/13.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu, tương đương tỷ lệ trúng thầu đạt 32%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm trúng thầu 1.120 tỷ đồng/3.000 tỷ đồng gọi thầu, 10 năm trúng thầu 3.060 tỷ đồng/8.000 tỷ đồng gọi thầu. Kỳ hạn 15 năm và 30 năm gọi thầu lần lượt 1.500 tỷ đồng và 500 tỷ đồng, tuy nhiên, không có khối lượng trúng thầu ở cả 2 kỳ hạn. Lãi suất trúng thầu ở kỳ hạn 5 năm là 3,16% (+0,02 điểm phần trăm so với phiên đấu thầu trước đó) và 10 năm là 3,83% (+0,03 điểm phần trăm).
Ngày 12/11, Kho bạc Nhà nước dự kiến chào thầu 13.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm chào thầu 3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm chào thầu 8.000 tỷ đồng, kỳ hạn 15 năm chào thầu 1.500 tỷ đồng và kỳ hạn 30 năm chào thầu 500 tỷ đồng. Ngày 13/11, Ngân hàng Chính sách Xã hội dự kiến chào thầu 2.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ bảo lãnh, trong đó 5 năm chào thầu 500 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm chào thầu 1.000 tỷ đồng và 15 năm chào thầu 500 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 10.698 tỷ đồng/phiên, giảm từ mức 12.987 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua tăng nhẹ ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 7/11, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 2,79% (+0,002 điểm phần trăm so với phiên cuối tuần trước đó); 2 năm 2,84% (+0,002 điểm phần trăm); 3 năm 2,91% (+0,002 điểm phần trăm); 5 năm 3,17% (+0,004 điểm phần trăm); 7 năm 3,43% (+0,01 điểm phần trăm); 10 năm 3,84% (+0,02 điểm phần trăm); 15 năm 3,91% (+0,02 điểm phần trăm); 30 năm 3,98% (+0,01 điểm phần trăm).
Thị trường chứng khoán tuần từ 3 - 7/11, thị trường chứng khoán diễn biến theo xu hướng giảm. Kết thúc phiên 07/11, VN-Index đứng ở mức 1.599,10 điểm, giảm mạnh 40,55 điểm (-2,47%) so với phiên cuối tuần trước đó; HNX-Index mất 5,74 điểm (-2,16%) còn 260,11 điểm; UPCoM-Index tăng 3,29 điểm (+2,90%) lên mức 116,75 điểm.
Thanh khoản thị trường trung bình đạt khoảng trên 25.700 tỷ đồng/phiên, tiếp tục giảm so với mức 27.100 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại bán ròng 1.146 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Nước Mỹ ghi nhận một số thông tin kinh tế đáng chú ý trong tuần vừa qua. Đầu tiên, Viện Quản lý Cung ứng Mỹ (ISM) khảo sát cho biết chỉ số PMI lĩnh vực sản xuất tại nước này chỉ đạt 48,7% trong tháng 10, giảm nhẹ xuống từ 49,1% của tháng trước đó và trái với dự báo nhích lên 49,4%. Như vậy, lĩnh vực sản xuất tại Mỹ đã rơi vào trạng thái thu hẹp 8 tháng liên tiếp. Ở lĩnh vực dịch vụ, chỉ số PMI của lĩnh vực này ở mức 52,4% trong tháng 10, tăng lên từ 50,0% của tháng trước đó và cũng cao hơn so với dự báo ở mức 50,7%.
Đây là mức PMI dịch vụ cao nhất mà nước Mỹ ghi nhận kể từ tháng 2 cho tới nay, đồng thời cho thấy lĩnh vực này vẫn đang là trụ cột của kinh tế Mỹ trong khi lĩnh vực sản xuất vẫn đang ở trạng thái thu hẹp. Cuối cùng, về thị trường lao động, tổ chức Phân tích Dữ liệu Tự động ADP khảo sát cho biết nước Mỹ tạo ra 42 nghìn việc làm mới trong tháng 10 sau khi giảm 29 nghìn ở tháng trước đó, cao hơn mức tăng 32 nghìn theo dự báo.
Trong tuần này, nếu Chính phủ Mỹ làm việc trở lại thị trường sẽ chờ đón các chỉ báo quan trọng, bao gồm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 được công bố ngày 13/11, và chỉ số giá sản xuất PPI cùng doanh số bán lẻ tháng 10 được công bố ngày 14/11 theo giờ Việt Nam.
Ngân hàng trung ương Anh (BoE) không điều chỉnh lãi suất chính sách trong tháng 11, đồng thời nền kinh tế này cũng đón các chỉ báo quan trọng. Cụ thể, trong cuộc họp ngày 5/11, Ủy ban chính sách tiền tệ của BoE (MPC) cho rằng lạm phát vẫn đang trong quá trình suy giảm về mức mục tiêu bởi chính sách tiền tệ vẫn còn thắt chặt. Bằng chứng là tốc độ tăng trưởng tiền lương và lạm phát giá dịch vụ cùng đang đi xuống. Chính sách tiền tệ hiện tại được thiết lập để cân bằng các rủi ro xung quanh việc đạt được lạm phát mục tiêu 2% một cách bền vững.
Trong cuộc họp lần này, 5/9 thành viên của MPC ủng hộ lãi suất chính sách đi ngang, và 4/9 thành viên còn lại ủng hộ cắt giảm lãi suất chính sách 25 điểm cơ bản. Theo đó, lãi suất chính sách trong cuộc họp lần này được BoE duy trì ở mức 4,0%, không thay đổi so với trước. MPC cho biết các quyết định cắt giảm lãi suất chính sách tiếp theo sẽ phụ thuộc vào diễn biến triển vọng lạm phát. Nếu quá trình kiểm soát lạm phát tiếp tục hiệu quả, lãi suất chính sách có thể sẽ giảm dần trong tương lai.
Liên quan đến kinh tế Anh, PMI lĩnh vực sản xuất tháng 10 của nước này được S&P Global công bố chính thức ở mức 49,7 điểm, không thay đổi nhiều so với mức 49,6 điểm theo kết quả sơ bộ. PMI lĩnh vực dịch vụ Anh tháng 10 được điều chỉnh tăng, chính thức ở mức 52,3 điểm, cao hơn so với mức 51,1 điểm theo khảo sát sơ bộ.
Trong tuần này, Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh (ONS) sẽ công bố dữ liệu thị trường lao động tháng 10 vào ngày 11/11, và GDP tháng 9 vào ngày 13/11 theo giờ Việt Nam
Tin liên quan
Tin khác
Phố Wall đi ngang trước thềm cuộc họp Fed
Cổ phiếu bất động sản, chứng khoán giữ nhịp thị trường
Cảnh báo thao túng giá đất: Cần giám sát đặc biệt
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 3/12
Kỳ vọng xoay trục chính sách từ Fed đẩy Phố Wall áp sát đỉnh lịch sử
Tháo điểm nghẽn chính sách nhà ở xã hội: Hà Nội cam kết minh bạch và liên thông
HDBank được chấp thuận chia cổ tức và cổ phiếu thưởng tổng cộng 30%
Bình Minh - Trái tim an cư giá trị bậc nhất “thành phố kim cảng” trung tâm phía Nam Hải Phòng
Liền kề Tương Lai, Vịnh Ngọc 48: Cơ hội nhiều năm mới xuất hiện một lần, lợi nhuận tới 25%/năm



