Điểm lại thông tin kinh tế tuần từ 31/10 đến 4/11
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 3/11 | |
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 2/11 |
Tổng quan
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10/2022, về kinh tế - xã hội, các thành viên Chính phủ thống nhất nhận định, trong điều kiện dịch bệnh được kiểm soát tốt, kinh tế - xã hội cả nước tháng 10 và 10 tháng tiếp tục đà phục hồi, phát triển nhanh với nhiều điểm sáng. Cụ thể, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng bình quân 10 tháng tăng 2,89%.
Các cân đối lớn được bảo đảm: Thu ngân sách nhà nước 10 tháng ước đạt 103,7% dự toán, tăng 16,2%; kim ngạch xuất nhập khẩu đạt hơn 616 tỷ USD, tăng 14,1%, xuất siêu 9,4 tỷ USD, riêng tháng 10 xuất siêu 2,27 tỷ USD (số liệu của Tổng cục Thống kê); an ninh lương thực được bảo đảm, xuất khẩu lương thực đạt 45 tỷ USD, trong đó có trên 6 triệu tấn gạo; an ninh năng lượng được bảo đảm, cơ bản cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt; cung ứng lao động cơ bản đáp ứng nhu cầu, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tăng 0,8% so tháng trước và tăng 10,2% so cùng kỳ.
Sản xuất công nghiệp tiếp đà phục hồi. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp IIP tháng 10 tăng 6,3% so cùng kỳ và 10 tháng tăng 9%; Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản ổn định và có tăng trưởng, bảo đảm tiến độ sản xuất, tái đàn, tái vụ, phục vụ nhu cầu dịp cuối năm và trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới.
Thương mại, dịch vụ sôi động, phục hồi nhanh ở tất cả các ngành. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ giữ xu hướng tháng sau cao hơn tháng trước, tổng 10 tháng đạt gần 4,65 triệu tỷ đồng, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm 2019.
Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và 03 Chương trình mục tiêu quốc gia được tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện. Trong 9 tháng đã thực hiện được hơn 60 nghìn tỷ đồng, chiếm hơn 20% tổng số vốn của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và giao kế hoạch vốn chi tiết 3 Chương trình mục tiêu quốc gia khoảng 92 nghìn tỷ đồng, đạt 92% kế hoạch giai đoạn 2021 - 2025.
Triển khai xây dựng một số công trình kết cấu hạ tầng quan trọng quốc gia; cơ bản hoàn thành 565 km đường bộ cao tốc, trong đó đã đưa vào khai thác 365 km và thông tuyến 200 km. Dự kiến trong tháng 12/2022, khởi công xây dựng 12/12 dự án thành phần với chiều dài 729 km của dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 và dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia được kiểm soát an toàn. Ước tính đến cuối năm 2022, nợ công vào khoảng 43 - 44% GDP (trần là 60%); nợ Chính phủ khoảng 40 - 41% GDP (trần là 50%) và nợ nước ngoài quốc gia khoảng 40 - 41% GDP (trần là 50%).
Nhiều tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá tích cực về tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam và dự báo lạc quan về tốc độ tăng trưởng năm 2022 và 2023, trong đó dự báo về tăng trưởng GDP năm 2022 hầu hết ở mức từ 7,5-8,2%. Nikkei Asia đánh giá Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về đà phục hồi sau đại dịch COVID-19 (đứng thứ 8 thế giới).
Tuy nhiên, Chính phủ cũng nêu rõ những tồn tại, hạn chế, khó khăn trên các lĩnh vực. Ổn định kinh tế vĩ mô đối mặt với nhiều thách thức, sức ép lạm phát lớn, giá xăng, dầu, nguyên vật liệu đầu vào biến động mạnh; các thị trường xuất, nhập khẩu lớn, truyền thống bị thu hẹp. Một số quy định pháp luật còn vướng mắc, bất cập, chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Giải ngân vốn đầu tư công, triển khai thực hiện một số chính sách thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia và việc lập các quy hoạch còn chậm. Các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro; cơ cấu lại một số tổ chức tín dụng yếu kém còn nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao. Nợ xấu, nợ thuế có xu hướng tăng.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực còn khó khăn; còn thiếu hụt lao động cục bộ trong một số ngành, lĩnh vực, địa bàn, nhất là lao động chất lượng cao. Thu hút FDI đầu tư mới và chuyển giao công nghệ gặp nhiều khó khăn; liên kết giữa khu vực FDI và kinh tế trong nước còn hạn chế. Tốc độ tăng năng suất lao động chưa đạt mục tiêu đề ra.
Trong báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trình bày tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XV, Chính phủ đề ra mục tiêu tổng quát cho năm 2023 như sau: Tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; Kiểm soát hiệu quả các loại dịch bệnh; Đẩy mạnh cơ cấu lại, nâng cao năng lực nội tại, tính tự lực, tự chủ, khả năng chống chịu và thích ứng của nền kinh tế; củng cố, phát triển các động lực tăng trưởng mới.
Theo đó, Chỉnh phủ xây dựng 15 chỉ tiêu chủ yếu về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường; trong đó: tăng trưởng GDP khoảng 6,5%; chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 4,5%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân 5 - 6% (tỷ lệ này không đạt chỉ tiêu 5,5% trong năm 2022); tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm 1 - 1,5%...
Tóm lược thị trường trong nước tuần từ 31/10 - 4/11
Thị trường ngoại tệ trong tuần từ 31/10 - 4/11, tỷ giá trung tâm được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) điều chỉnh tăng - giảm nhẹ qua các phiên. Chốt ngày 4/11, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.693 VND/USD, không thay đổi so với phiên cuối tuần trước đó. Sở giao dịch NHNN tiếp tục dừng niêm yết giá mua USD, giá bán giữ nguyên mức 24.870 VND/USD.
Tỷ giá đô - đồng liên ngân hàng biến động nhẹ trong tuần qua. Phiên cuối tuần 4/11, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 24.877 VND/USD, tăng 47 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá đô - đồng trên thị trường tự do biến động tăng - giảm qua các phiên trong tuần qua, chốt phiên 4/11 tăng 75 đồng ở chiều mua vào và 55 đồng ở chiều bán ra, giao dịch tại 25.300 VND/USD và 25.380 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng tuần từ 31/10 - 4/11, lãi suất VND liên ngân hàng biến động tăng qua các phiên ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống. Chốt ngày 4/11, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 6,31% (+1,81 điểm phần trăm so với phiên cuối tuần trước đó); 1 tuần 7,03% (+0,75 điểm phần trăm); 2 tuần 7,43% (+0,43 điểm phần trăm); 1 tháng 7,84% (+0,26%).
Lãi suất USD liên ngân hàng tăng mạnh qua các phiên ở tất cả các kỳ hạn trong tuần qua. Chốt tuần 4/11, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 3,90% (+0,77 điểm phần trăm); 1 tuần 4,0% (+0,70); 2 tuần 4,15% (+0,68 điểm phần trăm) và 1 tháng 4,40% (+0,80 điểm phần trăm).
Thị trường mở tuần từ 31/10 - 4/11, NHNN chào thầu 72.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố với các kỳ hạn 14 ngày, lãi suất ở mức 6,0%. Có 58.174,95 tỷ đồng trúng thầu; có 35.175,38 tỷ đồng đáo hạn. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN 2 phiên đầu tuần với kỳ hạn 7 ngày; có 19.999,6 tỷ đồng trúng thầu với lãi suất 6,0%, có 75.087,58 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn trong tuần.
Như vậy, NHNN bơm ròng 78.087,15 tỷ đồng ra thị trường thông qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 106.854,88 tỷ đồng, khối lượng tín phiếu ở mức 19.999,8 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu tuần qua, vào ngày 31/10, Ngân hàng Chính sách xã hội huy động thành công 3.000/5.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 60%). Trong đó, kỳ hạn 3 năm huy động toàn bộ 2.000 tỷ đồng, kỳ hạn 5 năm huy động 1.000/2.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm và 15 năm đấu thầu thất bại. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 3 năm giữ nguyên tại 4,7%/năm, kỳ hạn 5 năm giữ nguyên tại 4,8%/năm.
Ngày 2/11, Kho bạc Nhà nước huy động thành công 6.840/10.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 68%). Trong đó, kỳ hạn 10 năm huy động thành công 3.640/5.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, kỳ hạn 15 năm huy động được 3.200/5.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 10 năm và 15 năm lần lượt tại 4,2%/năm (+0,2%) và 4,4%/năm (+0,3%).
Tuần vừa qua và tuần này (7 - 11/11) không có trái phiếu chính phủ đáo hạn. Về kế hoạch đấu thầu trong tuần này, ngày 7/11, Ngân hàng Chính sách xã hội dự kiến gọi thầu 3.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ bảo lãnh các kỳ hạn từ 3 năm đến 15 năm; tiếp đó ngày 9/11, Kho bạc Nhà nước dự kiến gọi thầu 10.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ các kỳ hạn 10 năm và 15 năm.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 3.185 tỷ đồng/phiên, giảm so với mức 4.036 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ tăng ở hầu hết các kỳ hạn, chốt phiên 4/11, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh mức: 1 năm 4,78% (+0,03 điểm phần trăm); 2 năm 4,78% (+0,02 điểm phần trăm); 3 năm 4,79% (+0,02 điểm phần trăm); 5 năm 4,86% (+0,03 điểm phần trăm); 7 năm 4,93% (+0,02 điểm phần trăm); 10 năm 4,93% (-0,01 điểm phần trăm); 15 năm 5,11% (+0,03 điểm phần trăm); 30 năm 5,33% (+0,04 điểm phần trăm).
Thị trường chứng khoán tuần từ 31/10 - 4/11, thị trường chứng khoán trở lại tiêu cực khi cả 3 sàn chìm trong sắc đỏ. Chốt ngày 4/11, VN-Index đứng ở mức 997,15 điểm, giảm 30,21 điểm (-2,94%) so với cuối tuần trước đó, HNX-Index giảm 9,17 điểm (-4,29%) về 204,56 điểm, UPCom-Index giảm 1,83 điểm (-2,41%) còn 74,26 điểm.
Thanh khoản thị trường ở mức rất thấp với giá trị giao dịch trung bình trên 11.300 tỷ đồng/phiên. Khối ngoại bán ròng 426 tỷ đồng trên cả 3 sàn trong tuần qua.
Tin quốc tế
Tuần qua, ngày 2/11, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết định tăng lãi suất chính sách thêm 75 điểm cơ bản, lên mức từ 3,75 - 4,0%, cho rằng lạm phát vẫn tiếp tục tăng, phản ánh mất cân bằng cung cầu trên thị trường.
Như vậy, cơ quan này đã tăng lãi suất chính sách 6 lần trong năm nay, với 4 lần liên tiếp tăng 75 điểm cơ bản, từ 0 - 0,25% lên 3,75 - 4,0%.
Fed nhấn mạnh việc tiếp tục tăng lãi suất chính sách là phù hợp, song cũng sẽ cân nhắc các tác động tới nền kinh tế khi đưa ra quyết định tiếp theo. Sau những nhận định này, thị trường kỳ vọng Fed sẽ thu hẹp biên độ nâng suất chính sách trong tương lai.
Hiện tại, theo CME, có 60% khả năng Fed sẽ tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản trong cuộc họp ngày 14/12 và 40% khả năng tăng 75 điểm cơ bản.
Về các thông tin kinh tế Mỹ, PMI lĩnh vực sản xuất do ISM khảo sát ở mức 50,2 điểm trong tháng 10, giảm so với mức 50,9 điểm của tháng trước đó, cao hơn một chút so mức 50,0% điểm theo dự báo. Ở lĩnh vực sản xuất, PMI ghi nhận mức 54,4 điểm trong tháng vừa qua, giảm nhẹ từ 56,7 điểm của tháng 9 đồng thời thấp hơn mức 55,5 điểm theo dự báo.
Tiếp theo, đối với thị trường lao động, nước Mỹ tạo ra 10,72 triệu cơ hội việc làm trong tháng 9, cao hơn mức 10,28 triệu của tháng trước đó đồng thời vượt xa so với kỳ vọng chỉ ở mức 9,75 triệu. Trong tháng 10, nước này tạo ra 261 nghìn việc làm mới, thấp hơn so với 315 nghìn của tháng 9 nhưng vẫn tích cực hơn nhiều so 197 nghìn theo kỳ vọng. Thu nhập bình quân của người lao động cũng tăng 0,4% trong tháng vừa qua, nối tiếp đà tăng 0,3% ở tháng 9. Cuối cùng, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ là 3,7% trong tháng 10, tăng lên từ 3,5% của tháng 9, vượt qua mức 3,6% theo dự báo.
Ngày 3/11, cả 9 thành viên của BoE đã quyết định tăng mạnh lãi suất chính sách thêm 75 điểm cơ bản, lên mức 3,0%. Đây là biên độ tăng lớn nhất BoE từng áp dụng kể từ năm 1989 và lãi suất chính sách 3,0% cũng là mức cao nhất kể từ năm 2008 cho tới nay. Cơ quan này dự báo lạm phát tại Anh có thể đạt đỉnh tới 11% vào quý IV/2022, sau đó hạ nhiệt trong năm 2023, và cam kết sẽ ưu tiên hàng đầu mục tiêu đưa lạm phát trở lại mức mục tiêu 2,0% trong dài hạn.
Về kinh tế Anh, BoE khá bi quan khi cho rằng GDP nước này có thể giảm 0,75% ở nửa cuối năm 2022, tiếp tục suy giảm cho tới giữa năm 2024. Bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp được dự báo sẽ tăng dần lên tới mức 6,5% vào giữa năm 2024, sau đó giảm dần trở lại.
Cũng liên quan tới kinh tế Anh, chỉ số PMI lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực dịch vụ tại nước này lần lượt ở mức 46,2 và 48,8 điểm trong tháng 10, cùng được điều chỉnh tăng lên so với mức 45,8 và 47,5 điểm theo kháo sát sơ bộ.
Trong tuần này, nước Anh chờ đón các thông tin quan trọng về GDP quý III. Hiện tại, Reuters dự báo GDP quý vừa qua của nước Anh sẽ suy giảm 0,5% so với quý trước.