Chỉ số kinh tế:
Ngày 9/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.155 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.948/26.362 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Không nên “o ép” lãi suất cho vay

Nguyễn Vũ thực hiện
Nguyễn Vũ thực hiện  - 
Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, lãi suất huy động vẫn duy trì như hiện nay, khó có thể giảm thêm.
aa
khong nen o ep lai suat cho vay Thêm 24 nghìn tỷ đồng hỗ trợ doanh nghiệp từ giảm lãi suất
khong nen o ep lai suat cho vay NHNN sẽ giám sát việc giảm lãi suất hỗ trợ người dân, doanh nghiệp
khong nen o ep lai suat cho vay Lãi suất huy động sẽ ổn định ở mức thấp
khong nen o ep lai suat cho vay
TS. Lê Xuân Nghĩa

Thời gian vừa qua, các ngân hàng đã tiết giảm chi phí, giảm mạnh lãi suất cho vay hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. Dự kiến từ nay đến cuối năm, các ngân hàng cắt giảm thêm 20.300 tỷ đồng từ lợi nhuận để giảm lãi suất cho khách hàng. Song mới đây, có đề xuất NHNN nghiên cứu, chỉ đạo hệ thống ngân hàng giảm từ 3 - 5%/năm lãi suất cho vay. Liệu đề xuất trên có khả thi? ngân hàng còn dư địa để giảm thêm lãi suất không? Phóng viên đã trao đổi nhanh với Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia TS. Lê Xuân Nghĩa xoay quanh vấn đề này.

Theo ông, từ nay đến cuối năm, lãi suất huy động diễn biến như thế nào?

Tôi cho rằng, lãi suất huy động sẽ tạm thời duy trì ở mức hiện tại hoặc có thể tăng nhẹ. Còn việc giảm, theo tôi là rất khó có khả năng vì áp lực lạm phát cả ở bên trong và bên ngoài khá lớn. Lạm phát thế giới đang tăng trở lại do sản xuất, tiêu dùng phục hồi. Nhìn vào giá xăng dầu – vật liệu cơ bản tăng ở mức khá cao. Dù thời gian vừa rồi có điều chỉnh nhẹ, nhưng xu hướng tăng thấy rất rõ vì dường như là các quốc gia có vị trí then chốt về kinh tế toàn cầu tỷ lệ tiêm vắcxin cho người dân khá cao như ở Mỹ, châu Âu, Trung Quốc... Như vậy, việc mở cửa kinh tế du lịch cũng có thể bắt đầu khoảng 3-4 tháng nữa. Đó là khuynh hướng tạo tâm lý lạc quan cho người dân tiêu dùng mạnh mẽ hơn, giúp cho kinh tế phục hồi tốt hơn.

Còn ở trong nước, mặc dù tính đến cuối tháng 7/2021 xuất khẩu của Việt Nam tăng khá mạnh như đồ gỗ, điện tử… đặc biệt là nông sản tăng rất ấn tượng. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng nông, lâm, thủy sản cả nước ước đạt trên 53,2 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 28,6 tỷ USD, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm ngoái… Song, nhập khẩu những tháng qua tăng nhanh, do kỳ vọng kinh tế phục hồi nên doanh nghiệp nhập nhiều vật tư nguyên liệu máy móc thiết bị để đầu tư trung, dài hạn. Vì vậy, cán cân thương mại cũng thâm hụt tương đối.

Lạm phát trên thế giới vẫn tăng cao sẽ có tác động gián tiếp tới nước ta, khi giá nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu tiếp tục ở mức cao khiến giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam tăng, dẫn tới nguy cơ nhập khẩu lạm phát. Do đó, không thể chủ quan với lạm phát ở Việt Nam.

Giả sử lạm phát được kiểm soát ở mục tiêu 4%/năm như Quốc hội đặt ra trong khi lãi suất tiền gửi hiện nay bình quân khoảng 5%/năm thì lãi suất thực dương chỉ là 1%/năm. Theo đó, ngân hàng không thể giảm thêm được lãi suất huy động được. Vì nếu thế lãi suất thực âm người dân không gửi tiền nữa, ngân hàng sẽ rơi vào bẫy thanh khoản.

Theo ông, đề xuất giảm mạnh lãi suất cho vay 3-5% so hiện tại có khả thi?

Tôi cho rằng, đề xuất đó không khả thi. Muốn giảm lãi suất cho vay thì phải giảm lãi suất huy động tương ứng. Như phân tích ở trên, không thể nào giảm lãi suất huy động thêm được. Hiện các ngân hàng khó tiết giảm thêm chi phí để giảm thêm lãi suất được. Vì tiến độ số hoá vẫn còn chưa nhanh, đồng đều nên chưa thể tiết kiệm nhiều chi phí về nhân lực. Hai là nợ xấu tiềm ẩn còn rất lớn. Ngân hàng cần có nguồn lực để trích lập dự phòng. Hơn thế, khoản cho vay cũ chưa thu được còn đang kẹt ở nợ xấu, ngân hàng lại phải huy động thêm vốn để cho vay. Muốn huy động cho vay thì phải tăng lãi suất để hút vốn. Chính vì thế, theo tôi lãi suất huy động vẫn duy trì như hiện nay, khó có thể giảm thêm. Như vậy, không thể nào giảm mạnh được lãi suất cho vay.

Theo tôi, không nên đưa ra những kiến nghị như vậy vì nó không khả thi xét trên nhiều góc độ.

Ông có thể nói rõ hơn vì sao đề xuất trên là bất khả thi?

Trên thực tế, không có một nước nào trên thế giới, giai đoạn khủng hoảng lại đòi ngân hàng giảm mạnh lãi suất cho vay như ở Việt Nam. Vì ngân hàng hoạt động trên nền tảng tiền gửi của người dân. Khi nhận tiền gửi để kinh doanh, ngân hàng có trách nhiệm trả lãi cho người dân như đã thoả thuận và còn phải đảm bảo lãi suất phải thực dương so với lạm phát.

Trong khi bản thân hệ thống ngân hàng đang phải đối mặt với khó khăn nội tại đó là gánh nặng nợ xấu thời gian tới là rất lớn. Nếu không có đủ nguồn lực để trích lập dự phòng, xử lý nợ xấu ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng nói riêng, kinh tế vĩ mô nói chung.

Ở các nước trên thế giới, khi kinh tế khủng hoảng họ thường phải sử dụng công cụ chính sách tài khoá với các gói kích cầu lớn thay vì sử dụng chính sách tiền tệ. Chẳng hạn như ở Mỹ, các gói kích cầu lớn lên tới trên 9.000 tỷ USD bằng tổng GDP của nước này. Do vậy, theo tôi ở Việt Nam cũng nên sử dụng công cụ chính sách tài khoá để hỗ trợ doanh nghiệp, nền kinh tế trong giai đoạn tới. Chúng ta cũng nên rút kinh nghiệm về thất bại của gói kích cầu bằng hạ lãi suất cho vay ngân hàng giai đoạn khủng hoảng tài chính năm 2009. Do vậy, theo tôi Chính phủ thận trọng trong việc sử dụng chính sách tiền tệ để hỗ trợ doanh nghiệp khi mà dư địa chính sách này đang rất hạn hẹp.

Xin cảm ơn ông!

Nguyễn Vũ thực hiện

Tin liên quan

Tin khác

Bất động sản dưỡng lão sẽ là mỏ vàng mới nếu Việt Nam kịp thời mở cửa chính sách

Bất động sản dưỡng lão sẽ là mỏ vàng mới nếu Việt Nam kịp thời mở cửa chính sách

Bất động sản dưỡng lão sẽ là “mỏ vàng” mới khi nhu cầu chăm sóc sức khỏe, an dưỡng và sống độc lập của người cao tuổi tăng mạnh. Tuy nhiên, để bứt phá, thị trường cần khung pháp lý rõ ràng và chính sách hỗ trợ, đó là chia sẻ của ông Neil MacGregor – Giám đốc Điều hành Savills Việt Nam với báo giới về vấn đề này.
Tín dụng tiêu dùng tăng tốc: Động lực từ vĩ mô và bài toán quản trị rủi ro

Tín dụng tiêu dùng tăng tốc: Động lực từ vĩ mô và bài toán quản trị rủi ro

Những tháng cuối năm, nhu cầu chi tiêu, mua sắm thường tăng mạnh, kéo theo nhu cầu vay tiêu dùng. Cùng với tín dụng cho sản xuất - kinh doanh, liệu tín dụng tiêu dùng có thể trở thành “điểm tựa” cho tăng trưởng tín dụng chung hay không, và rủi ro nợ xấu sẽ được kiểm soát thế nào khi các ngân hàng tăng tốc giải ngân? Trao đổi với Thời báo Ngân hàng, PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng (Học viện Ngân hàng) đã phân tích động lực vĩ mô, cảnh báo rủi ro và gợi ý giải pháp quản trị, minh bạch để vừa thúc đẩy cầu nội địa vừa bảo đảm an toàn hệ thống.
Những biến số nào đang ảnh hưởng tới mục tiêu tăng trưởng và thị trường chứng khoán?

Những biến số nào đang ảnh hưởng tới mục tiêu tăng trưởng và thị trường chứng khoán?

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam khép lại năm 2025 với tốc độ tăng trưởng ấn tượng và kỳ vọng bước vào chu kỳ phát triển mới, các yếu tố lãi suất, tỷ giá và lạm phát đang được đặt vào tâm điểm quan sát. Từ góc nhìn phân tích kinh tế – tài chính, ông Nguyễn Quang Đạt, Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán An Bình (ABS), cho rằng bối cảnh vĩ mô hiện nay vẫn đang tạo dựng nền tảng quan trọng để duy trì đà tăng trưởng, đồng thời củng cố triển vọng tích cực của thị trường trong năm 2026, dù còn một số thách thức không thể xem nhẹ.
Kinh tế xanh – hướng đi chiến lược để tăng sức cạnh tranh

Kinh tế xanh – hướng đi chiến lược để tăng sức cạnh tranh

Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động mạnh vì địa chính trị, năng lượng và biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh đang trở thành hướng đi chiến lược của nhiều quốc gia. Việt Nam nổi lên như một điểm sáng của khu vực với sự bứt tốc trong xe điện, thị trường carbon và triển khai hạ tầng năng lượng sạch – những yếu tố được xem là trụ cột cho năng lực cạnh tranh trong thập kỷ tới.
Từ "lượng" sang "chất" và vai trò trụ cột của ngành quỹ

Từ "lượng" sang "chất" và vai trò trụ cột của ngành quỹ

Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của một giai đoạn mang tính bước ngoặt: chuyển mình từ quy mô sang chất lượng, hướng tới các chuẩn mực quốc tế để đón dòng vốn ngoại hạng sang. Trong bối cảnh đó, Quyết định phê duyệt đề án "Tái cấu trúc nhà đầu tư và phát triển ngành quỹ đầu tư chứng khoán" mới đây của Bộ Tài chính không chỉ là một văn bản chính sách đơn thuần, mà được giới chuyên gia đánh giá như một "bản thiết kế tổng thể" nhằm thay đổi căn bản cách thức huy động và quản lý nguồn vốn trong nền kinh tế. Việc phát triển ngành quỹ lúc này trở thành nhu cầu cấp thiết để kiến tạo sự ổn định và bền vững cho thị trường.
Cần thúc đẩy hơn nữa các động lực đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu

Cần thúc đẩy hơn nữa các động lực đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu

Nền kinh tế tiếp tục duy trì đà phục hồi tích cực. Tuy nhiên, để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng năm 2025 và giữ vững ổn định vĩ mô, những tháng cuối năm đòi hỏi các giải pháp điều hành quyết liệt và linh hoạt hơn. Trong cuộc trao đổi với phóng viên, TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam, phân tích các động lực, rủi ro và triển vọng của nền kinh tế giai đoạn cuối năm.
Triển vọng tích cực của thị trường chứng khoán trong bối cảnh vĩ mô thuận lợi

Triển vọng tích cực của thị trường chứng khoán trong bối cảnh vĩ mô thuận lợi

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam duy trì đà tăng trưởng ấn tượng và nhiều yếu tố hỗ trợ đang hội tụ, thị trường chứng khoán bước vào giai đoạn tích lũy quanh vùng 1.600 điểm sau khi lập đỉnh lịch sử giữa tháng 10. Với góc nhìn chiến lược, ông Trần Anh Tuấn, CFA, Giám đốc Trung tâm Phân tích, Công ty CP Chứng khoán Dầu khí (PSI) cho rằng, thị trường đang vận động trong vùng tích lũy cần thiết để kiểm định dòng tiền và chuẩn bị cho một chu kỳ tăng trưởng mới. Ông phân tích bối cảnh vĩ mô, diễn biến thị trường, triển vọng cuối năm, kỳ vọng 2026 và chiến lược đầu tư phù hợp trong giai đoạn nhiều cơ hội nhưng kèm theo rung lắc kỹ thuật.
Thị trường chứng khoán tích lũy lành mạnh

Thị trường chứng khoán tích lũy lành mạnh

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam năm 2025 đang phục hồi đồng thuận, nhiều chỉ số vĩ mô khởi sắc và các chính sách tài khóa - tiền tệ tiếp tục hỗ trợ hoạt động sản xuất, đầu tư và tiêu dùng, thị trường chứng khoán bước vào giai đoạn tích lũy quanh vùng 1.600 điểm sau một chu kỳ tăng kéo dài từ đầu năm. Với góc nhìn phân tích chiến lược, bà Nguyễn Thị Bảo Trân, Giám đốc Phân tích Khối Vĩ mô và Chiến lược, Công ty CP Chứng khoán Mirae Asset (MAS) cho biết, thị trường đang vận động trong trạng thái lành mạnh, được nâng đỡ bởi nền tảng vĩ mô tích cực, dòng vốn nội trụ cột và kỳ vọng lớn từ lộ trình nới lỏng chính sách toàn cầu.
Hạ tầng sẽ tái định hình bản đồ đô thị trong 10 năm tới

Hạ tầng sẽ tái định hình bản đồ đô thị trong 10 năm tới

Theo ông Troy Griffiths - Phó Tổng Giám đốc Savills Việt Nam, hạ tầng là động lực quan trọng nhất của thập kỷ tới. Khi giao thông và logistics được cải thiện, đô thị vệ tinh sẽ trở thành trung tâm phát triển mới...
Chứng khoán lên hạng: Cần hội đủ các điều kiện để thu hút dòng tiền bền vững

Chứng khoán lên hạng: Cần hội đủ các điều kiện để thu hút dòng tiền bền vững

Sau khi Việt Nam được FTSE Russell chấp thuận nâng hạng lên thị trường mới nổi thứ cấp, kỳ vọng về dòng vốn ngoại đổ vào chứng khoán Việt Nam tăng cao. Tuy nhiên, theo TS. Hồ Quốc Tuấn – Giảng viên cao cấp Đại học Bristol (Anh), để thu hút dòng tiền bền vững, Việt Nam cần hội đủ các điều kiện về tăng trưởng, tỷ giá và chính sách trong nước, bởi dòng vốn toàn cầu đang dịch chuyển phức tạp giữa các khu vực và loại tài sản.