Kỳ 1: Sự bùng nổ của công nghệ - hai mặt của tấm huy chương
![]() |
Chuyển đổi số: Từ chủ trương đến những đổi thay trong đời sống
Trong bối cảnh thế giới đang bước vào giai đoạn phát triển bùng nổ của công nghệ số, Việt Nam đã sớm nhận diện rõ xu thế này là một thời cơ lịch sử để đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh quốc gia. Chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi số thể hiện tầm nhìn chiến lược, coi chuyển đổi số là động lực mới của phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021 - 2030 của Việt Nam đều đã nhấn mạnh phải đổi mới tư duy và hành động, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Đảng, Nhà nước ta cũng rất coi trọng và xem chuyển đổi số là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trước đó, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị đã đặt nền móng quan trọng, định hướng chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, khẳng định Việt Nam phải tận dụng cơ hội để “bứt phá, đi tắt đón đầu”.
Từ tầm nhìn chiến lược đó, Chính phủ đã cụ thể hóa bằng Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020). Mục tiêu của chương trình là phát triển đồng thời ba trụ cột: Chính phủ số - Kinh tế số - Xã hội số, với người dân là trung tâm và doanh nghiệp là động lực.
Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam đã lan tỏa mạnh mẽ, trở thành một trong những trụ cột quan trọng của phục hồi và phát triển kinh tế. Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, xét về tỷ trọng kinh tế số/GDP, kinh tế số Việt Nam hiện xếp thứ 41 trên thế giới và đang tăng thứ hạng khá nhanh. Năm 2024, tỷ trọng kinh tế số của Việt Nam đã đạt gần 19% GDP và năm 2025 sẽ vượt mục tiêu 20% GDP.
“Chúng ta đặt mục tiêu kinh tế số chiếm 30 - 35% GDP vào năm 2030. Khi đó, Việt Nam sẽ lọt vào top 30 toàn cầu”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chia sẻ.
Các ngành thương mại điện tử, logistics, du lịch trực tuyến và dịch vụ sáng tạo số bùng nổ mạnh mẽ. Doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khu vực tư nhân, đang chuyển dịch mạnh từ mô hình truyền thống sang ứng dụng nền tảng số trong sản xuất, kinh doanh và quản trị. Không chỉ giúp tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả, chuyển đổi số còn mở ra không gian thị trường rộng lớn và khả năng tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong khu vực công, chính phủ điện tử - chính phủ sốđã được triển khai sâu rộng. Hệ thống Cổng Dịch vụ công quốc gia, nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu, định danh điện tử công dân, cơ sở dữ liệu dân cư và đất đai đang được hoàn thiện, tạo nền tảng quan trọng cho việc cung cấp dịch vụ hành chính công trực tuyến một cách minh bạch, thuận tiện. Đến nay, hàng chục triệu hồ sơ đã được xử lý qua môi trường mạng, tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng chi phí xã hội mỗi năm.
Không chỉ trong kinh tế, chuyển đổi số còn làm thay đổi căn bản đời sống xã hội. Người dân ngày càng quen thuộc với các dịch vụ trực tuyến trong học tập, y tế, mua sắm, thanh toán, giải trí. Hệ sinh thái số đã và đang định hình một xã hội kết nối thông minh, nơi mọi giao dịch, thông tin và dịch vụ đều có thể thực hiện trong vài thao tác trên điện thoại di động.
Các mô hình học tập số, y tế số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh phát triển mạnh. Trong giáo dục, học trực tuyến trở thành xu thế bền vững; trong y tế, khám bệnh từ xa và quản lý hồ sơ sức khỏe điện tử giúp tiết kiệm chi phí, giảm tải bệnh viện. Nhiều địa phương như Đà Nẵng, Quảng Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương đang trở thành điểm sáng về chính quyền số, đô thị thông minh.
| Ngân hàng - ngành tiên phong trên hành trình số hóa Trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, ngành Ngân hàng được xem là một trong những lĩnh vực đi đầu, đóng vai trò hạ tầng quan trọng cho kinh tế số. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Ngân hàng Nhà nước đã xác định chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, gắn với mục tiêu phát triển ngân hàng số, thanh toán số và tài chính toàn diện. Theo đó, các ngân hàng thương mại trong nước đã có những bước tiến vượt bậc. Nếu như vài năm trước, giao dịch trực tuyến còn hạn chế, thì đến nay, theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, hơn 90% giao dịch tài chính cá nhân tại các ngân hàng lớn được thực hiện qua kênh số. Điển hình, nhiều ngân hàng đạt tỷ lệ trên 95% giao dịch thực hiện trên kênh số, còn số giao dịch tại quầy giảm đều đặn từng năm. 100% ngân hàng đã triển khai Internet Banking, Mobile Banking. Nhiều ngân hàng đã phát triển hệ sinh thái ngân hàng số toàn diện với các ứng dụng thông minh, tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và sinh trắc học. Đặc biệt, hệ thống thanh toán không tiền mặt phát triển nhanh chóng. Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến giữa năm 2024, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng hơn 50% so với cùng kỳ năm trước, thanh toán qua điện thoại di động tăng gần 100%. Việt Nam hiện có trên 100 tổ chức trung gian thanh toán, hơn 45 ví điện tử được cấp phép hoạt động, phục vụ hàng chục triệu người dùng. Các nền tảng thanh toán QR code, chuyển tiền nhanh Napas 247 và định danh điện tử eKYC giúp người dân dễ dàng mở tài khoản, giao dịch trực tuyến trong vài phút. Tính đến tháng 4/2025, toàn ngành Ngân hàng đã có hơn 108,1 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân (CIF) được đối chiếu sinh trắc học qua căn cước công dân (CCCD) gắn chíp hoặc ứng dụng VNeID. Trong đó, 60 TCTD đã triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắn chíp qua thiết bị tại quầy; 56 TCTD và 39 tổ chức trung gian thanh toán đã triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắp chíp qua ứng dụng điện thoại; 32 TCTD và 15 tổ chức trung gian thanh toán đang triển khai ứng dụng VNeID, trong đó có 18 đơn vị đã triển khai thực tế. Cùng với đó, các ngân hàng đang đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu lớn trong đánh giá tín dụng, phòng chống gian lận, quản lý rủi ro, cũng như cá nhân hóa sản phẩm dịch vụ. Một số ngân hàng đã thử nghiệm chatbot thông minh, cố vấn tài chính ảo hay quy trình phê duyệt tín dụng tự động. Mô hình chi nhánh “không giấy tờ”, giao dịch viên robot hay trung tâm dữ liệu đám mây đang dần trở nên phổ biến. Đặc biệt, ngày 11/5 đã được chọn là Ngày chuyển đổi số ngành Ngân hàng, có ý nghĩa quan trọng giúp Ngành xác định rõ định hướng, kế hoạch hoạt động trong xu thế chuyển đổi số. Ngành Ngân hàng cũng là một trong những ngành đầu tiên triển khai Hội nghị phát động phong trào “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” gắn với thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị. |
Lợi dụng chuyển đổi số để phát tán thông tin sai lệch
Hiện Việt Nam là một trong những quốc gia có lượng người dùng mạng xã hội thuộc hàng cao trên thế giới. Theo báo cáo của DataReportal về mức độ phổ biến và sử dụng các thiết bị, dịch vụ kết nối, Việt Nam có 79,8 triệu người sử dụng internet và 76,2 triệu tài khoản mạng xã hội vào tháng 1/2025. Trong số hơn 76,2 triệu tài khoản mạng xã hội ở Việt Nam, riêng Facebook, TikTok, Zalo và YouTube, mỗi mạng xã hội đều có hàng chục triệu người dùng. Điều này khiến không gian mạng vừa là cơ hội, vừa đặt ra thách thức lớn nếu nội dung sai lệch chi phối nhận thức xã hội.
Lợi dụng sự bùng nổ của công nghệ thông tin, của chuyển đổi số, các thế lực thù địch đã đưa những thông tin không đúng sự thật. Qua các tài khoản Facebook, TikTok, Zalo và YouTube chúng ra sức cổ xúy cho những giá trị quyền con người phương Tây, tuyên truyền, cổ vũ cho luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền”; cho rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn là xã hội áp bức, bóc lột. Đặc biệt, mới đây, nhân việc Đảng, Nhà nước ta thực hiện chủ trương tinh giản biên chế và sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, các thế lực thù địch đã ra sức tuyên truyền, xuyên tạc rằng việc tinh giản biên chế ở Việt Nam “không đem lại hiệu quả thực tế mà chỉ là gây tốn kém tiền bạc, ngân sách”, tinh giản biên chế là “đấu đá quyền lực, phe nhóm”, “cắt giảm quyền lực của người này để tăng quyền lực cho người kia, là cách để “hạ bệ” hoặc “gia cố” quyền lực trong Đảng”.
Riêng ngành Ngân hàng cũng phải đối mặt với những thông tin sai sự thật trên mạng, phổ biến là đưa ra tin đồn thất thiệt đến lãnh đạo các ngân hàng, tạo tin giả mạo để lừa đảo khách hàng. Đơn cử như ngày 3/1/2025, một số cá nhân đã lợi dụng mạng xã hội để livestream, lan truyền những thông tin hoàn toàn sai sự thật, bịa đặt về ông Trần Hùng Huy, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), liên quan đến các thông tin vô căn cứ như đánh bạc, chuyển tiền ra nước ngoài hàng chục triệu đô.
ACB bác bỏ các thông tin sai sự thật này. Những thông tin đó đã xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của lãnh đạo ngân hàng, ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh, uy tín của ACB.
Mới đây là sự cố an ninh mạng tại Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia (CIC) ngày 10/9. Lợi dụng sự việc này, các đối tượng đã mạo danh các ngân hàng, tổ chức tín dụng… liên lạc với khách hàng qua mạng xã hội để lừa đảo, với những thông tin như: “Tài khoản ngân hàng của bạn đã bị lộ thông tin, lộ mật khẩu… đề nghị anh/chị cung cấp thông tin hoặc xác minh lại thông tin hoặc click vào link sau để đổi mật khẩu”.
Trước những thông tin “xấu độc”, xuyên tạc sai sự thật và trước những hành vi lừa đảo trên không gian mạng, cần phải đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu và “ứng xử trên không gian mạng” tốt hơn.
Truyền thông trong kỷ nguyên số: “Chuyển động” từ Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế
Thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên số, nơi thông tin trở thành tài nguyên chiến lược, dữ liệu trở thành “nguồn dầu mỏ mới” và truyền thông trở thành một trong những công cụ định hình xã hội mạnh mẽ nhất. Sự bùng nổ của Internet, mạng xã hội, trí tuệ nhân tạo (AI) và các nền tảng số toàn cầu đã làm thay đổi căn bản cách thức sản xuất, lan tỏa và tiếp nhận thông tin. Trong bối cảnh đó, công tác truyền thông ở Việt Nam đứng trước những thời cơ lớn lao, song cũng đối diện với nhiều thách thức chưa từng có.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định vai trò chiến lược của báo chí trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam: “Báo chí là vũ khí cách mạng sắc bén, là tiếng nói của Đảng và nhân dân, là phương tiện để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng”. Nhận thức này tiếp tục được Đảng và Nhà nước được khẳng định trong kỷ nguyên số và được cụ thể hóa trong nhiều chủ trương, nghị quyết quan trọng.
Tại Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" nhấn mạnh: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan báo chí và nhân dân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”. Qua đó khẳng định, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đặt nhiệm vụ tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong môi trường mạng, coi truyền thông là lực lượng nòng cốt.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 348/QĐ-TTg ngày 06/4/2023 phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, với mục tiêu phát triển hệ thống báo chí chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, nâng cao hiệu quả tuyên truyền và sức lan tỏa của báo chí cách mạng Việt Nam. Đây là bước đi quan trọng thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc “số hóa” báo chí, nhưng vẫn giữ vững định hướng chính trị, tư tưởng.
Kỷ nguyên số đã làm thay đổi toàn diện chuỗi giá trị truyền thông, từ cách sản xuất, phân phối đến tiếp nhận và tương tác của công chúng.
Trong kỷ nguyên số, truyền thông chính sách, truyền thông chính trị (của chính quyền, nhà nước) tại các quốc gia cũng thay đổi nhanh chóng. Từ việc chỉ truyền tải thông tin một chiều, nhiều quốc gia đã chuyển sang hướng truyền thông đa nền tảng, tương tác sâu, ứng dụng công nghệ và dữ liệu để lan tỏa giá trị cốt lõi, củng cố niềm tin xã hội. Trung Quốc là một trong những quốc gia tiên phong trong việc hiện đại hóa hệ thống truyền thông chính thống. Các cơ quan như People’s Daily, CCTV và Tân Hoa xã đã chủ động chuyển mạnh sang nền tảng mạng xã hội nội địa như Douyin (TikTok Trung Quốc), Weibo hay Kuaishou, biến truyền thông chính trị thành các sản phẩm số hấp dẫn, gần gũi và lan tỏa nhanh chóng. Một nghiên cứu công bố trên Nature Humanities and Social Sciences Communications (2024) cho thấy, chỉ riêng People’s Daily đã đăng hơn 5.000 video ngắn trên Douyin trong giai đoạn 2018-2023, còn CCTV vượt 7.000 video, thu hút hàng chục triệu lượt xem. Điểm đáng chú ý là các nội dung không đơn thuần tuyên truyền mà được kể lại bằng câu chuyện người thật, việc thật, thông điệp ngắn gọn, hình ảnh sáng tạo, giúp người xem tiếp nhận tự nhiên hơn.
Với Hàn Quốc, quốc gia được mệnh danh có hạ tầng kỹ thuật số hàng đầu châu Á và đã sớm nhìn nhận truyền thông như một thành tố của quản trị quốc gia. Năm 2020, Chính phủ Hàn Quốc ban hành Kế hoạch phát triển Hệ sinh thái truyền thông số (Digital Media Ecosystem Plan), khuyến khích các đài truyền hình, công ty công nghệ và nền tảng số phối hợp để mở rộng nội dung đa phương tiện, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, chính sách và văn hóa công.
Còn tại quốc gia Đông Nam Á, Singapore là một ví dụ điển hình về truyền thông trong quản trị nhà nước. Chiến lược Smart Nation 2.0 (2024) xác định ba trụ cột: Niềm tin, Tăng trưởng, Cộng đồng, trong đó truyền thông được coi là phương tiện tạo dựng lòng tin và gắn kết công dân.
Báo chí Singapore (như hệ thống STOMP của SPH Media) cũng tham gia lan tỏa thông tin chính thống bằng cách cho phép người dân đăng bài, chia sẻ hình ảnh đời sống, qua đó biến truyền thông công thành diễn đàn cộng đồng. Đây chính là đổi mới trong phương thức phối hợp giữa Nhà nước - Báo chí - Người dân, giúp nội dung chính thống không bị khô cứng mà giàu tính tương tác, thuyết phục hơn.
Những kinh nghiệm quốc tế trên đây cho thấy, “đổi mới” không chỉ là thay đổi công cụ, mà là thay đổi tư duy và mô hình vận hành truyền thông.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
2. Ngô Hảo Nhi: “Báo chí cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên số dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 18/6/2025, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1094402/bao-chi-cach-mang-viet-nam-trong-ky-nguyen-so-duoi-anh-tu-tuong-ho-chi-minh.aspx
3. Quốc An: “Lật tẩy những chiêu trò xuyên tạc, chống phá trên không gian mạng”, Báo Công an nhân dân điện tử, ngày 16/1/2025, https://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/lat-tay-nhung-chieu-tro-xuyen-tac-chong-pha-tren-khong-gian-mang-i756682/
Xem tiếp kỳ 2: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực tiền tệ
Tin liên quan
Tin khác
Nghị quyết về năng lượng 2026-2030: Gỡ "nút thắt" đầu tư và bài toán rủi ro dòng vốn
Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm Tài chính Quốc tế: Thiết chế tư pháp mới
Việt Nam coi trọng hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài
TECHFEST Việt Nam 2025: Khởi nghiệp sáng tạo toàn dân - Động lực tăng trưởng mới
Việt Nam - Lào tăng cường hợp tác lao động và người có công
Tăng quyền lợi, giảm chi phí chăm sóc sức khỏe cho người dân
Khẩn trương giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho người dân bị ảnh hưởng mưa lũ
Luật Chuyển đổi số: Trụ cột thể chế mới cho quốc gia số, kiến tạo đột phá trong chính phủ số – kinh tế số – xã hội số
Làm rõ các cơ chế để tháo gỡ vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai



