Ngành dệt may gặp muôn trùng khó khăn do dịch Covid
Ngành dệt may, da giày trước cơ hội bứt phá | |
EVFTA tác động thế nào đối với ngành dệt may | |
Ngành dệt may thu hút công nghệ mới |
TS Phạm Sỹ Thành, Trưởng nhóm nghiên cứu phát biểu tại hội thảo |
Theo Ban tổ chức, báo cáo được chuyên gia thuộc Chương trình Nghiên cứu Chiến lược Mekong-Trung Quốc (MCSS) của VNUA thực hiện ngay trong thời gian đại dịch Covid-19 diễn ra. Báo cáo xem xét thực trạng ngành dệt may Việt Nam, tìm ra và chẩn đoán những điểm yếu của ngành. Từ đó, đánh giá tác động của đại dịch đến kết quả của ngành trong năm 2020 và xa hơn nữa.
Phát biểu khai mạc tại hội thảo, ông Phạm Bảo Dương, Phó giám đốc VNUA cho biết: Hội thảo công bố báo cáo ngày hôm nay là một trong những hoạt động mở đầu cho hợp tác giữa VNUA và AAV. Sự khởi đầu này có ý nghĩa sẽ mở ra nhiều hoạt động hợp tác thiết thực và hiệu quả nhằm tiến tới ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác.
Bên cạnh đó, ông Phạm Bảo Dương cho rằng “Thời gian này và năm 2021 sẽ là thời điểm hết sức khó khăn của ngành dệt may. Trong bối cảnh đó, báo cáo nhằm phân tích thực chứng những tác động của tình hình kinh tế thế giới đến triển vọng ngành dệt may Việt Nam. Đây là một nghiên cứu nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn không chỉ đối với ngành dệt may mà còn cả công chúng và truyền thông”.
Toàn cảnh hội thảo |
Đặt nhiều kỳ vọng về bản báo cáo, bà Hoàng Phương Thảo, Trưởng Đại diện của ActionAid Quốc tế tại Việt Nam chia sẻ: Bản báo cáo là nghiên cứu đầu tiên trong chuỗi các hoạt động hợp tác nghiên cứu giữa ActionAid Quốc tế tại Việt Nam và chương trình MCSS.
"Chúng tôi kỳ vọng các kết quả nghiên cứu có tính đột phá và thực tế như thế này sẽ được MCSS tiếp tục trong các nghiên cứu tiếp theo, đặc biệt quan tâm đến hiệu ứng của các chính sách vĩ mô tới cuộc sống và sinh kế của các nhóm yếu thế", bà Thảo cho biết.
Báo cáo tại hội thảo, TS Phạm Sỹ Thành, Trưởng nhóm nghiên cứu - Giám đốc chương trình MCSS cho biết: “Covid-19 tác động rất tiêu cực đến cả nguồn cung và đầu ra của ngành dệt may. Xét theo các thị trường chủ chốt, 5 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu vào thị trường Mỹ giảm 14,9%, thị trường EU giảm 19%. Với hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU được phê chuẩn, dệt may Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn vào sáng tạo để tạo ra nhiều giá trị gia tăng thêm cho ngành.”
Cũng theo báo cáo, ngành dệt may Việt Nam không có chuỗi cung ứng đầy đủ nên rất khó tận dụng lợi thế của các FTA. Một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ tận dụng FTA của Việt Nam rất thấp là không tự chủ được vấn đề xuất xứ hàng hóa. Ghi nhận đến năm 2020, Việt Nam đã ký và có 12 FTA có hiệu lực, 1 FTA đợi phê chuẩn và đang đàm phán 3 FTA khác. Việc kí kết FTA (song phương và đa phương) đem lại cho ngành dệt may những ưu thế cạnh tranh xuất khẩu vô cùng to lớn.
Ngoài những tác động đến kim ngạch xuất nhập khẩu, kết quả báo cáo cũng chỉ ra những khó khăn về lao động của doanh nghiệp dệt may. Theo số liệu điều tra vào tháng 4/2020 với hơn 3000 doanh nghiệp đã cho kết quả ngành may mặc có số lao động chỉ còn khoảng 20% và doanh nghiệp dệt chỉ còn 24,5% số lao động so với cùng kỳ năm ngoái.
Riêng tại Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), do thiếu đơn hàng nên nhiều công ty đã phải chủ động giãn việc, công nhân nghỉ việc luân phiên hoặc cho nghỉ việc không lương. Toàn bộ Vinatex có hơn 26.000 lao động bị thiếu việc. Theo tiểu ngành, các công ty dệt của Vinatex thiếu khoảng 10-15% việc làm trong khi doanh nghiệp dệt sẽ thiếu 40% việc làm từ tháng 5/2020.
Để giải quyết những khó khăn này, TS Phạm Sỹ Thành cho rằng rất cần có những thay đổi mạnh mẽ về chính sách và cơ cấu thuế, giá phù hợp. Bởi, hiện nay còn quá ít doanh nghiệp dệt may thụ hưởng các giải pháp hỗ trợ. Ngoài ra, theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam và các doanh nghiệp dệt may, việc giãn, giảm hoặc miễn thuế không có nhiều tác dụng tích cực đối với doanh nghiệp của ngành; quy định hoãn đóng bảo hiểm xã hội hiện chưa hợp lí, và người lao động không được hỗ trợ hiệu quả, trong bối cảnh Chính phủ có chính sách hỗ trợ người lao động bị buộc thôi việc do Covid-19 nhưng rất khó tiếp cận do thủ tục quá rườm rà.
Trước mắt để ứng phó với Covid-19 nhiều doanh nghiệp dệt may ưu tiên cắt giảm chi phí thường xuyên và thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh hơn là lựa chọn cắt, giảm lao động. Nguyên nhân chủ yếu do doanh nghiệp lo ngại sẽ không tuyển dụng lại được lao động khi thị trường khôi phục, hoặc vẫn cần sản xuất cầm chừng để giữ thị trường và thị phần.
Vì vậy, dựa trên những phân tích nêu trên, nhóm nghiên cứu đã đề xuất những khuyến nghị chính sách cả với doanh nghiệp và với Chính phủ trong việc hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó và nhanh chóng chuyển đổi để thích ứng với những biến chuyển nhanh chóng của tình hình tương lai.