Chỉ số kinh tế:
Ngày 17/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.146 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.934/26.348 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền các chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1558-1777)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Nguyễn Hoàng là một đại thần nhà Lê. Năm 1558 ông được lệnh vào trấn thủ đất Thuận Hoá. Năm 1570, ông kiêm quản cả xứ Quảng Nam. Năm 1593, ông được phong làm Thái uý Đoan Quận công, được triều đình Lê -Trịnh cho phép quản lý vùng Thuận Quảng, hàng năm nộp thuế cho triều đình...
aa

Tiền các chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1558-1777)

Nguyễn Hoàng là một đại thần nhà Lê. Năm 1558 ông được lệnh vào trấn thủ đất Thuận Hoá. Năm 1570, ông kiêm quản cả xứ Quảng Nam. Năm 1593, ông được phong làm Thái uý Đoan Quận công, được triều đình Lê -Trịnh cho phép quản lý vùng Thuận Quảng, hàng năm nộp thuế cho triều đình. Trong thời gian ở Thuận Quảng, bên ngoài Nguyễn Hoàng thần phục nhà Lê, nhưng bên trong mở mang bờ cõi, thành lập một giang sơn riêng từ Thuận Hoá trở vào Nam, chuẩn bị mọi mặt chống lại chúa Trịnh.

Về mặt kinh tế, Nguyễn Hoàng lập nhiều chợ, phát triển nội thương, ngoại thương. Tàu thuyền các nước, nhất là tàu Trung Hoa và Nhật Bản, ra vào khá nhộn nhịp.

Về phương diện tiền tệ, để đáp ứng nhu cầu một nền kinh tế sản xuất hàng hoá, do tiền bằng kẽm, chì, sắt không đảm bảo, nên năm 1724 chúa Nguyễn cấm lưu thông loại tiền làm bằng những chất liệu trên và chủ trương đúc tiền đồng. Nhưng đồng lại rất hiếm, các chúa phải mua đồng, kẽm của Trung Hoa, Nhật Bản, Hà Lan với giá rất cao. Do đó, chúa Nguyễn nhập khẩu tiền từ nhà Thanh của Trung Hoa và cho Mạc Thiên Tứ mở lò đúc tiền ở Hà Tiên. Các chúa Nguyễn không xưng vương nên không đặt niên hiệu. Do đó, các đồng tiền đúc tại lò Mạc Thiên Tứ thường lấy niên hiệu của một số vương triều trong nước đã từng tồn tại trong lịch sử, nhưng cũng có loại tiền không thuộc niên hiệu nào. Tiền thường có đường kính nhỏ, mỏng. Các nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến khác nhau về loại tiền này. Đa số đều cho loại tiền đó thuộc lò đúc của Mạc Thiên Tứ.

Đặc biệt, có hai loại tiền dưới đây của chúa Nguyễn được nhiều người thừa nhận:

- Tiền Thái Bình thông bảo 太平通寳

Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thái Bình thông bảo”- 太平通寳. Về tự dạng thì nét chấm, phẩy ở chữ “Bình”- 平 không giống chữ Bình của các đồng tiền có xuất xứ, nguồn gốc thuộc niên hiệu khác. Mặt lưng có các ký hiệu: 1 chấm, 2 chấm, 1 gạch ngang, chấm phẩy v.v. Đường kính 24 mm, nặng từ 2,8 g đến 3,5g.

Tiền các chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1558-1777)
Ảnh 1.9.1. Tiền Thái Bình thông bảo 太平通寳, kiểu chữ Chân, lưng tiền có 1 Chấm hoặc 2 Chấm, đường kính 24mm

- Tiền Thiên Minh thông bảo 天明通寳

Tiền đúc bằng kẽm. Mặt trước đúc nổi 4 chữ “Thiên Minh thông bảo”- 天明通寳. Lưng tiền để trơn hoặc có 1 chấm tròn. Tiền này do Nguyễn Phúc Khoát đúc năm 1746. Đường kính 23 mm, dày 1mm, trọng lượng 3,3g.

Tiền các chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1558-1777)
Ảnh 1.9.2. Tiền Thiên Minh thông bảo 天明通寳, kiểu chữ Chân, lưng tiền có chấm tròn,
đường kính 23 mm

Tiền Thiên Minh thông bảo đúc nhiều đợt, năm Bính Dần (1746), Đinh Mão (1747), Mậu Thìn (1748) đúc được 72.396 quan.

Như sự xuất hiện tiền đúc bằng kẽm đúc năm 1746, 1747 và 1748, với số lượng 72.396 quan, chứng tỏ, hoàn cảnh thiếu nguyên liệu đồng trầm trọng, nên lệnh cấm của chúa Nguyễn năm 1724 chưa được triệt để thực hiện.

Ngoài hai loại tiền nói trên, trên địa bàn các chúa Nguyễn quản lý còn có các loại tiền Trung Hoa từ thời Đường đến thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Các loại tiền này có nhiều nguồn: Thương gia Nhật nhập khẩu tiền Trung Hoa rồi mang sang Việt Nam, chúa Nguyễn cũng nhập tiền Trung Hoa, thương gia Trung Hoa mang sang.

Vì vậy, vào thế kỷ XVII-XVIII, trên địa bàn các chúa Nguyễn Đàng Trong quản lý, tiền được lưu thông trên thị trường rất phong phú và đa dạng bao gồm: Tiền của chúa Nguyễn, các loại tiền thời Lê, tiền Nhật Bản, tiền Trung Hoa, tiền Triều Tiên, tiền Mậu Dịch.


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa:Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.