Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ II - Tiền đời vua Lê Thế Tông (1573 - 1599)
| Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ I - Tiền đời vua Lê Trang Tông (1533 - 1548) |
Tiền đời vua Lê Thế Tông (1573 - 1599)
Năm 1573, chúa Trịnh Tùng sai người giết vua Lê Anh Tông, lập Thái tử Lê Duy Đàm (con thứ 5 của vua Lê Anh Tông) lên làm vua, tức Lê Thế Tông, đặt niên hiệu là Gia Thái (1573 - 1577), cho đúc tiền Gia Thái thông bảo.
Tiền được đúc bằng đồng và đúc nhiều lần. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Gia Thái thông bảo”- 嘉泰通寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ rất nhỏ, nét chữ rõ ràng và sắc nét. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều rất rộng và nổi rõ. Đường kính 24,5 - 25mm, dày 1,1 - 1,5mm, nặng 3,6 - 3,9gr
![]() |
| Ảnh 1.8.2. Tiền Gia Thái thông bảo 嘉泰通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 24,5-25mm |
Năm 1578, vua Lê Thế Tông đổi niên hiệu là Quang Hưng (1578 - 1599), song không thấy vua cho đúc tiền mang niên hiệu này.
Năm 1599, vua Lê Thế Tông băng hà, chúa Trịnh Tùng lập con thứ của vua Lê Thế Tông là Lê Duy Tân lên ngôi (tức vua Lê Kính Tông). Nhà vua đặt hai niên hiệu Thận Đức (1600) và Hoằng Định (1601 - 1619), nhưng đến nay, chúng ta chưa tìm thấy loại tiền mang hai niên hiệu này.
Tiền đời vua Lê Thần Tông (1619 - 1643)
Năm 1619, vua Lê Kính Tông cùng với Trịnh Xuân (con thứ của Trịnh Tùng) mưu giết chúa Trịnh Tùng không thành. Trịnh Xuân bị giam vào Nội phủ, còn vua Lê Kính Tông bị giết. Chúa Trịnh lập Thái tử Lê Duy Kỳ lên làm vua (tức vua Lê Thần Tông). Trong 24 năm ở ngôi, nhà vua đặt ba niên hiệu Vĩnh Tộ (1619 - 1629), Đức Long (1629 - 1635) và Dương Hòa (1635 - 1643). Năm 1643, vua Lê Thần Tông làm Thái Thượng hoàng, nhường ngôi cho con là Lê Duy Hựu (tức vua Lê Chân Tông), đặt niên hiệu là Phúc Thái (1643-1649). Các niên hiệu trên đều không cho đúc tiền. Năm 1648, vua Lê Chân Tông mất, chúa Trịnh lại đưa Thái Thượng hoàng Lê Thần Tông trở lại ngôi vua. Trong 13 năm ở ngôi tiếp theo, vua Lê Thần Tông đặt bốn niên hiệu: Khánh Đức (1649 - 1653), Thịnh Đức (1653 - 1658), Vĩnh Thọ (1658 - 1662) và Vạn Khánh (1662). Trong các niên hiệu trên, vua Lê Thần Tông cho đúc nhiều loại tiền theo niên hiệu Vĩnh Thọ. Đây là lần đầu tiên trong thời Lê Trung Hưng cho đúc tiền quy mô lớn.
![]() |
| Ảnh 1.8.3. Tiền Vĩnh Thọ thông bảo 永壽通寳, kiểu Chân thư và Hành thư, lưng tiền trơn, đường kính 24mm |
Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Vĩnh Thọ thông bảo”- 永壽通寳 theo kiểu Chân thư và Hành thư, đọc chéo. Khổ chữ nhỏ, nét chữ rõ ràng và sắc nét. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều nổi rõ. Tiền khá mỏng. Đường kính 23,2mm - 26,5mm, dày 1,3-2mm, nặng 2,85-7gr.
Đón đọc Kỳ III: Tiền đời vua Lê Hy Tông (1675 - 1705)
Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm
Tin liên quan
Tin khác
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)




