Chỉ số kinh tế:
Ngày 19/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.148 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.941/26.355 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền triều Tiền Lê (980 - 1009) - Kỳ II: Tiền đời vua Lê Đại Hành (980-1005)

Trần Lâm
Trần Lâm  - 
Trong thời gian tại vị, Vua Lê Đại Hành đã cho đúc tiền Thiên Phúc trấn bảo lần đầu tiên vào năm 984. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Giáp Thân, [Thiên Phúc] năm thứ 5 [984],... Mùa xuân, tháng 2, đúc tiền Thiên Phúc”...
aa
Tiền triều Tiền Lê (980 - 1009) - Kỳ I
Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ“Thiên Phúc trấn bảo”-天福鎮寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ đậm. Lưng tiền đúc chữ “Lê”- 黎 (họ của Nhà vua) hoặc để trơn. Biên tiền trước và sau đều hẹp và nổi rõ.

Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳 được đúc nhiều lần nên thư pháp và kích thước có nhiều kiểu dạng khác nhau. Cho đến nay đã phát hiện được 4 loại tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳:

- Loại thứ nhất: Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳, lưng tiền để trơn. Đường kính 25mm, dày 1,5mm, nặng 2,2gr.

Ảnh 1.2.1. Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳,  kiểu Chân thư - Lưng tiền trơn, đk 25 mm
Ảnh 1. Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳, kiểu Chân thư - Lưng tiền trơn, đường kính 25 mm

- Loại thứ hai: Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳, lưng tiền đúc chữ “Lê”- 黎 trên lỗ vuông theo kiểu Chân thư. Đường kính 24,5-25,5mm, dày 1,5-1,8mm, nặng 2,3-2,5gr.

Ảnh 1.2.2. Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Lê” - 黎, đường kính 24,5 – 25,5 mm
Ảnh 2. Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Lê” - 黎, đường kính 24,5 - 25,5 mm

- Loại thứ ba: Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳, lưng tiền đúc chữ “Lê”- 黎 trên lỗ vuông theo kiểu Giản thư. Đường kính 23,5mm, dày 1,5mm, nặng 2,3gr.

Tiền triều Tiền Lê (980 - 1009) - Kỳ II: Tiền đời vua Lê Đại Hành (980-1005)
Ảnh 3: Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳, kiểu chữ Chân, lưng tiền đúc chữ “Lê”- 黎, đường kính 23,5 mm

- Loại thứ tư: Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳, lưng tiền đúc chữ “Lê”- 黎 trên lỗ vuông theo kiểu Lệ thư. Đường kính 24,5-25mm, dày 1,7-1,8mm, nặng 2,6gr

Ảnh 1.2.4. Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳,  kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Lê” - 黎,  đk 24,5 -25 mm
Ảnh 1.2.4. Tiền Thiên Phúc trấn bảo 天福鎮寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Lê” - 黎, đường kính 24,5 -25 mm

Tiền Thiên Phúc trấn bảo có phong cách gần giống tiền Thái Bình hưng bảo với kỹ thuật đúc tương đối thô, mặt tiền lồi lõm không phẳng, biên tiền chỗ to chỗ nhỏ, mang đặc trưng phong cách tiền đồng Việt Nam thời kỳ đầu.

Như vậy, chúng ta thấy, cũng như triều Đinh, triều Tiền Lê chỉ đúc một loại tiền đồng mang niên hiệu vua khai sáng. Điều này chứng tỏ tiền tệ chưa phát triển, nền kinh tế hàng hóa còn non kém, nhu cầu trao đổi bằng tiền chưa phổ biến. So với tiền triều Đinh, tiền Thiên Phúc trấn bảo đã buôn bán lưu thông tới biên giới phía Nam Trung Hoa, vì thế trong các ấn phẩm tiền cổ của Trung Quốc, thường gọi loại này là tiền chữ Lê.

Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử Đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Trần Lâm

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Từ năm 1940, chính phủ Vichy (Pháp) do Thống chế Philippe Pétain đứng đầu cho phép Ngân hàng Đông Dương phát hành những loại tiền hào mệnh giá nhỏ (1 hào=10 xu).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.