Chỉ số kinh tế:
Ngày 4/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.152 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.946/26.360 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ IV: Tiền đời Vua Trần Minh Tông (1314-1329)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Năm 1314, vua Trần Anh Tông nhường ngôi cho Thái tử Mạnh (tức Vua Trần Minh Tông). Vua Trần Minh Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Đại Khánh (1314-1323)...
aa
Tiền triều Trần (1225 - 1400) - Kỳ I Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ II: Tiền đời vua Trần Thái Tông (1225-1258) Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ III: Tiền đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278)

Tiếp theo Kỳ III: Tiền đời Vua Trần Thánh Tông (1258-1278), theo ghi nhận tại Tác phẩm ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sau đời vua Trần Thánh Tông, đến các đời vua Trần Nhân Tông (1279-1293) và Trần Anh Tông (1293-1314), kéo dài 35 năm, không hề thấy sử sách ghi chép gì về việc đúc tiền. Phải chăng, trong thời gian này, triều Trần phải lo chống quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ hai và lần thứ ba. Kinh đô Thăng Long hai lần bị quân Nguyên cướp phá, thêm vào đó, khởi nghĩa nông dân lại diễn ra liên miên. Nỗ lực của triều đình phải tập trung chống quân Nguyên, nguyên liệu đồng dành ưu tiên đúc vũ khí. Với hoàn cảnh như vậy, việc đúc tiền ít có cơ hội thực hiện.

"Cho tới hiện nay, chưa có một phát hiện nào liên quan đến tiền của thời kỳ này", theo Tác phẩm ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Năm 1314, vua Trần Anh Tông nhường ngôi cho Thái tử Mạnh (tức Vua Trần Minh Tông). Vua Trần Minh Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Đại Khánh (1314-1323). Để phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, buôn bán giao thương thì cần phải có tiền tệ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Quý Hợi, [Đại Khánh] năm thứ 10 [1323]… Mùa đông, tháng 11, đúc tiền kẽm”. Tuy nhiên, cho đến nay cũng chưa có ai nhìn thấy tiền kẽm Đại Khánh, có thể do chất liệu này rất dễ bị biến dạng trong tiêu dùng và dễ bị phân hủy trong tự nhiên. Mặc dầu vậy, danh mục tiền Việt Nam vẫn ghi nhận đồng Đại Khánh thông bảo của đời vua Trần Minh Tông.

Năm 1324, vua Trần Minh Tông đổi niên hiệu là Khai Thái (1324-1329), ra lệnh cấm tiền kẽm và cho đúc tiền đồng Khai Thái nguyên bảo. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn chép: “Giáp Tý, Khai Thái năm thứ 1[1324]… Mùa đông, tháng 12, cấm tiền kẽm” .

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Khai Thái nguyên bảo” - 開泰元寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Tiền Khai Thái nguyên bảo 開泰元寳 có 2 loại:

- Loại thứ nhất: Khổ chữ nhỏ, nét chữ rõ ràng. Lưng tiền đúc nổi chữ “Trần” - 陳 theo kiểu Chân thư ở trên lỗ vuông, có nghĩa là triều Trần. Biên tiền trước nhỏ, biên tiền sau mờ. Tiền rất mỏng. Loại tiền này phát hiện được rất ít. Đường kính 24mm, dày 0,9mm, nặng 1,7gr.

Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ IV: Tiền đời Vua Trần Minh Tông (1314-1329)

Tiền Khai Thái nguyên bảo 開泰元寳,kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Trần” - 陳, đường kính 24mm

- Loại thứ hai: Loại tiền này có nhiều dạng: chữ to, chữ nhỏ, loại chữ “Bảo”- 寳 có bộ Bối (貝) tròn, loại chữ “Bảo” - 寳 lùn, loại chữ “Bảo”- 寳 có bộ Bối (貝)vuông, loại chữ “Nguyên”- 元 nhỏ, loại chữ “Nguyên”- 元 to. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau rộng. Đường kính 24,5mm, dày 1,5mm, nặng 3,6gr.

Loại tiền lưng trơn phát hiện được nhiều hơn loại tiền lưng có chữ “Trần”- 陳.

Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ IV: Tiền đời Vua Trần Minh Tông (1314-1329)

Tiền Khai Thái nguyên bảo 開泰元寳,kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đường kính 24,5 mm

Sau đời vua Trần Minh Tông, vua Trần Hiến Tông lên ngôi năm 1329, đặt niên hiệu là Khai Hựu (1329-1341) nhưng không thấy sử cũ ghi chép việc đúc tiền.

Đón đọc Kỳ V: Tiền đời vua Trần Dụ Tông (1341-1369)


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Ngân hàng Đông Dương phát hành bộ tiền xu nhôm gồm các mệnh giá 20 cent, 10 cent và 5 cent để thay thế tiền hợp kim trước đó. Đồng 20 cent (1945) giữ nguyên họa tiết cũ, được đúc tại ba xưởng ở Pháp: Paris (không ký hiệu), Beaumont–Le Roger (B) và Castelsarrasin (C), với kích thước 27 mm, dày 1,7 mm và nặng 2,2 g. Đồng 10 cent (1945) có thiết kế tương tự, do Paris và Beaumont–Le Roger sản xuất, đường kính 23 mm, dày 1,5 mm và nặng 2,2 g. Năm 1946, đồng 5 cent được phát hành, vẫn đồng bộ về họa tiết, đúc tại Paris và Beaumont–Le Roger, kích thước 18 mm, dày 1,3 mm, nặng 0,8 g. Bộ tiền xu phản ánh sự thay đổi vật liệu và tiêu chuẩn đúc thời hậu chiến.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp tái chiếm Sài Gòn, sau đó mở rộng ra đánh chiếm toàn Nam Bộ, khôi phục lại chế độ thực dân cai trị ở miền Nam. Ngân hàng Đông Dương được khôi phục lại ở Nam Kỳ và tiếp tục phát hành tiền tệ trong vùng chiếm đóng.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng nhôm, tiền bạc ngoại thương

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng nhôm, tiền bạc ngoại thương

Năm 1943, Ngân hàng Đông Dương cho đúc hai loại đồng xu mệnh giá 5 cent chất liệu nhôm, hình tròn, lỗ tròn ở giữa. Hai đồng xu này chỉ khác nhau ở chỗ: một loại cạnh có răng cưa và loại kia không có răng cưa. Riêng loại có răng cưa hiện rất hiếm gặp.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng kẽm

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng kẽm

Tiền 1 cent: Trong hai năm 1940 và 1941, Ngân hàng Đông Dương cho đúc tại Hà Nội (Việt Nam) 3 loại tiền xu hình tròn, lỗ tròn ở giữa, chất liệu kẽm với mệnh giá 1 cent. Các đồng xu đều có đường kính 28,3mm, dày 1,6mm và trọng lượng 5,2gr.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền niken và hợp kim niken - đồng

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền niken và hợp kim niken - đồng

Tiền 20 cent: Năm 1939, Ngân hàng Đông Dương đã cho đúc 3 loại đồng xu hình tròn có mệnh giá 20 cent bằng hợp kim niken - đồng, bao gồm đồng 1939 (a) xẻ rãnh (dọc cạnh đồng tiền, phía trong rãnh có hình x..x),đồng 1939 (a) không xẻ rãnh và đồng 1941S không xẻ rãnh.