Áp lực cạnh tranh từ thị trường “sát vách”
Chệch hướng trong AEC, doanh nghiệp sẽ khó bật lên | |
Doanh nghiệp Việt vẫn đuối trong ASEAN | |
Việt Nam - AEC cộng hưởng sức mạnh |
Cán cân thương mại của Việt Nam với các quốc gia lớn trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN) gồm Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia... đang tiếp tục tình trạng thâm hụt nghiêng về phía Việt Nam. Điều đáng lo ngại là trong cơ cấu hàng hoá nhập khẩu từ thị trường này, các nhóm hàng tiêu dùng đang gia tăng mạnh, cho thấy nguy cơ cạnh tranh đối với hàng Việt Nam thực chất sẽ đến từ chính các thị trường “sát vách”, chứ không phải từ các quốc gia phát triển như Mỹ hay châu Âu…
Thâm hụt thương mại liên tục gia tăng
Số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cho thấy, trong 7 tháng đầu năm 2017, Việt Nam nhập siêu khoảng 3,68 tỷ USD từ thị trường ASEAN. Trong đó, Thái Lan đặc biệt nổi lên là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong khu vực này. Thái Lan cũng đồng thời là đối tác gây thâm hụt thương mại mạnh nhất cho Việt Nam trong khu vực, đạt 3,1 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 7 tháng năm 2017, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Thái Lan tăng 22,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó hàng hoá có xuất xứ từ quốc gia này tập trung chủ yếu vào các nhóm hàng tiêu dùng, đứng đầu là hàng điện gia dụng và linh kiện đạt 590,8 triệu USD; nhóm hàng rau quả đạt 516,8 triệu USD… Đặc biệt, Thái Lan đang dẫn đầu về xuất khẩu ô tô nguyên chiếc sang Việt Nam với 21,86 nghìn chiếc, chiếm 38% tổng lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu vào Việt Nam trong 7 tháng năm 2017; trị giá nhập khẩu tăng 14,7%.
Các DN FDI đang dẫn dắt xuất khẩu vào thị trường ASEAN |
Số liệu thống kê cũng cho thấy mức thâm hụt thương mại từ Thái Lan đã tăng mạnh trong vòng 2 năm vừa qua, chủ yếu do nhập khẩu hàng hóa từ thị trường này tăng cao trong khi xuất khẩu từ Việt Nam suy giảm hoặc tăng trưởng thấp. Kết quả là trong năm 2016, Việt Nam đã nhập siêu từ Thái Lan khoảng 5,1 tỷ USD, tương đương mức nhập siêu năm 2015. Hiện nay nhập siêu hàng hóa từ Thái Lan lớn thứ 4, chỉ xếp sau Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan.
Cùng chung tình trạng trên, cán cân thương mại giữa Việt Nam và một số quốc gia ASEAN đã duy trì trạng thái thâm hụt trong suốt nhiều năm. Cụ thể, Malaysia là thị trường lớn thứ 2 của Việt Nam trong ASEAN; năm 2016 xuất khẩu sang thị trường này giảm 6,7% so với năm 2015, song nhập khẩu tăng tới 23,2%, khiến thâm hụt thương mại đạt 1,83 tỷ USD. Tương tự như vậy, Singapore là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam trong ASEAN, với mức thâm hụt thương mại trong năm 2016 là 2,32 tỷ USD; Indonesia thâm hụt 373 triệu USD.
Tổng cục Hải qua cho biết, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – ASEAN tăng gấp 7 lần sau 20 năm trở thành thành viên của khối này. Tuy nhiên, cán cân thương mại hàng hóa luôn nghiêng về thâm hụt với các nước ASEAN, và trong suốt 20 năm gia nhập, Việt Nam chưa từng đạt thặng dư thương mại với khối này. Năm 1996 thời điểm gia nhập ASEAN mức thâm hụt là 745 triệu USD, thì đến năm 2016 đã lên tới 6,59 tỷ USD.
Nhiều nguy cơ vì bỏ quên thị trường gần
Theo lộ trình thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA), thuế nhập khẩu các mặt hàng từ khu vực ASEAN giảm mạnh thời gian qua đã “dọn đường” cho hàng hoá có xuất xứ từ các quốc gia này thâm nhập vào thị trường Việt Nam dễ dàng hơn. Dự báo đến năm 2018 khi thuế suất nhiều mặt hàng giảm về 0%, lượng hàng nhập khẩu từ các quốc gia ASEAN sẽ còn tăng cao.
Điển hình là xe ô tô nhập khẩu nguyên chiếc, Thái Lan được dự báo sẽ tiếp tục dẫn đầu về cung cấp mặt hàng này cho Việt Nam, bỏ xa các đối tác khác như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Indonesia cũng đang nổi lên là nhà nhập khẩu ô tô nguyên chiếc vào Việt Nam. Riêng trong 7 tháng năm nay, lượng xe nhập khẩu từ quốc gia này đã cao gấp hơn 9 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu tiếp tục giữ tốc độ này, thâm hụt thương mại giữa Việt Nam với Indonesia nhiều khả năng sẽ còn tiếp tục gia tăng.
Ở chiều ngược lại, xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào ASEAN năm 2016 tăng 6,8 lần so với thời điểm gia nhập cộng đồng này cách đây 20 năm, với tốc độ tăng bình quân 10% năm. Tuy nhiên tốc độ xuất khẩu lại chậm hơn so với nhập khẩu. Riêng trong năm 2016, xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang các nước ASEAN giảm 4,4% so với năm 2015.
Đặc biệt, nếu xét theo cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu chủ lực sang thị trường này, có thể thấy các sản phẩm dẫn dắt cho xuất khẩu vào ASEAN chủ yếu thuộc về khối DN FDI. Cụ thể, nhóm hàng điện thoại và linh kiện chiếm tỷ lệ khoảng 13%; nhóm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện chiếm 12%... Thời gian qua, đây cũng là các nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất vào ASEAN. Trong khi đó, các nhóm hàng thuộc “sở trường” của khối DN trong nước như nông sản, hàng tiêu dùng… khá chật vật để mở đường vào thị trường khu vực.
Chuyên gia kinh tế, TS. Võ Trí Thành phân tích, việc DN Việt Nam ngại mở lối vào các thị trường lớn trong ASEAN là do cơ cấu hàng hoá giữa Việt Nam và các quốc gia này khá tương đồng, tính bổ sung không cao. Tuy nhiên ở chiều ngược lại, việc hàng hoá từ các quốc gia ASEAN thâm nhập mạnh vào Việt Nam lại là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy sản phẩm hàng hoá tiêu dùng vẫn có cửa cạnh tranh miễn là chất lượng cao, giá thành rẻ hơn. Vì vậy, có thể nói rằng DN xuất khẩu của Việt Nam đang quá mải mê vào các thị trường xa như Mỹ, châu Âu… và bỏ quên thị trường gần là ASEAN.
Ông Thành phân tích, việc mở rộng được thị trường ASEAN mới thực sự là cơ hội để DN Việt Nam nâng cao năng lực của chính mình, hình thành cách làm ăn mới bài bản hơn theo hướng tự thiết lập mạng lưới sản xuất, phân phối… thay vì phải phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài như khi xuất khẩu vào các thị trường phát triển. Về lâu dài, ông Thành khuyến cáo các DN Việt Nam cần nhìn nhận ASEAN là nơi để tạo dựng dần vị thế của mình, coi đây là sân chơi để tập dượt trước khi ra biển lớn hơn. Vì vậy, nếu không kịp thời cải thiện năng lực cạnh tranh của hàng hoá trong nước, cũng như tìm đường xuất khẩu sang các quốc gia ASEAN, hàng hoá Việt Nam sẽ ngày càng đối diện nguy cơ thua trên chính sân nhà, cùng với đó là mất dần khả năng cạnh tranh xuất khẩu.