Để đẩy mạnh KHCN trong nông nghiệp
Vai trò của ngân hàng và ứng dụng KHCN trong phát triển nông nghiệp - nông thôn |
Chuyên canh công nghệ cao
“Công cuộc” đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) trong nông nghiệp, đặc biệt là ứng dụng công nghệ cao, khiến cho Hà Nội chỉ trong ít năm vừa qua đã từng bước hình thành các vùng chuyên canh quy mô lớn, sản lượng tăng và chất lượng cũng cải thiện.
Chẳng hạn như với sản phẩm lúa gạo, dù không phải địa phương có thế mạnh nhưng những thay đổi nhờ ứng dụng KHCN cũng ghi dấu ấn. Năm 2016, năng suất lúa vụ Xuân bình quân đạt 61,11 tạ/ha, sản lượng ước đạt 609.266 tấn, góp phần để ngành nông nghiệp Thủ đô tăng trưởng trên 2,0%.
Mô hình trồng hoa công nghệ cao tại huyện Đan Phượng (Hà Nội) |
Nhưng hoa cây cảnh, nông sản đặc trưng Hà Nội… mới là nhóm sản phẩm phát huy cao nhất hiệu quả khi ứng dụng KHCN. Ông Chu Phú Mỹ, Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội cho biết, chính việc nghiên cứu khoa học được áp dụng vào quy trình sản xuất một số giống cây ăn quả, hoa… đã đem lại năng suất và sản lượng nông sản cao cho vùng ngoại thành.
Hiện nay, Hà Nội cũng đã hình thành một số chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó xây dựng thương hiệu sản phẩm có chất lượng.
Đặc biệt, Hà Nội đã tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tạo ra sản phẩm chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh và nâng cao thu nhập cho nông dân.
Đơn cử như tại huyện Phúc Thọ, nhờ việc mạnh dạn ứng dụng KHCN vào nông nghiệp đã hình thành nhiều mô hình làm ăn có hiệu quả như sản xuất hoa ly chất lượng cao tại các xã Hát Môn, Thanh Đa, Võng Xuyên, Thượng Cốc... doanh thu từ 5,5-6 tỷ đồng/ha/vụ. Bên cạnh đó, huyện cũng chủ động đưa KHCN áp dụng vào trồng lúa với các mô hình cánh đồng mẫu lớn, mô hình tập trung và cây rau màu...
Đại diện lãnh đạo UBND huyện Phúc Thọ cho rằng, trong bối cảnh đất sản xuất không thể mở rộng thêm, việc ứng dụng tiến bộ KHCN là yếu tố quan trọng nhất giúp tăng năng suất, chất lượng nông sản. Nhờ xây dựng được kế hoạch sản xuất khoa học và có sự định hướng đúng đắn trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đến nay cuộc sống của người dân Phúc Thọ đã có nhiều thay đổi.
Không chỉ Phúc Thọ ghi nhận sự thay đổi của ngành nông nghiệp sau khi ứng dụng thành công các mô hình KHCN hiện đại, nhiều địa bàn khác cũng đang phát triển các sản phẩm đặc trưng của mình.
Trong số đó, tiêu biểu có mô hình trồng hoa lan trong nhà lưới ở các huyện Thạch Thất, Đan Phượng, Chương Mỹ; mô hình hoa, cây ăn quả, chăn nuôi thủy sản… ở một số địa bàn huyện Hoài Đức, Mê Linh, Thanh Trì, Đông Anh...
Hiệu ứng từ vốn tín dụng
Theo Bộ NN&PTNT, hiện nay cả nước có trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, bông, cây ăn quả... được dùng giống mới; khoảng gần 90% giống cây trồng, vật nuôi được chọn tạo, đưa tỷ trọng áp dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp lên 35%.
Trong chăn nuôi đã sử dụng giống mới vào sản xuất, theo đó năng suất, chất lượng sản phẩm thịt, trứng, sữa được cải thiện rõ rệt. Ngành thủy sản, KHCN đã ứng dụng trong sản xuất giống, công nghệ nuôi trồng, chế biến giúp tăng sản lượng và giá trị xuất khẩu thủy sản.
Trong giai đoạn 10 năm gần đây, các hoạt động KHCN trong nông nghiệp đã đóng góp trực tiếp vào GDP của ngành khoảng 35%. Năng suất nhiều loại cây trồng vật nuôi tăng lên đáng kể như lúa, cà phê... Tính riêng năm 2015, nhờ thành tựu KHCN đã đóng góp 40% GDP ngành nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm tỷ trọng 30% trong giá trị các sản phẩm chủ yếu, dự kiến tăng lên 50% vào năm 2020.
Có được kết quả trên, Bộ NN&PTNT cho rằng, thời gian qua Việt Nam đã có nhiều đổi mới trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy nghiên cứu KHCN trong ngành nông nghiệp.
Một số chính sách mới có tính quyết định đến hoạt động KHCN có thể kể đến là cơ chế đặt hàng, cơ chế khoán đến sản phẩm cuối cùng trong nghiên cứu. Hệ thống nghiên cứu được tăng cường, nhiều kết quả nghiên cứu được chuyển giao vào thực tế góp phần tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Riêng ở góc độ chuyển giao công nghệ, vốn tín dụng là điều kiện không thể thiếu, đặc biệt nguồn vốn trung, dài hạn. Nhiều năm nay, sản xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong các hoạt động được ưu tiên cho vay tín dụng.
Đặc biệt, lĩnh vực cho vay ưu tiên này càng được khởi sắc bởi Nghị định 55/2015/NĐ-CP thay thế Nghị định 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nghị định này quy định nhiều điểm mới về đối tượng và điều kiện tiếp cận dòng tín dụng cho phát triển nông nghiệp nói chung, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng.
Thực hiện chủ trương đó, những năm qua các ngân hàng đã dành nguồn vốn lớn để hỗ trợ, cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là Agribank. Là ngân hàng giữ vững vai trò chủ đạo trong đầu tư cho “tam nông”, các chương trình trọng điểm của Chính phủ, Agribank những năm qua đã đẩy mạnh cho vay các chương trình nông nghiệp ứng dụng KHCN và công nghệ cao.
Đến nay, số khách hàng vay vốn của Agribank đã đạt trên 3,6 triệu khách hàng, trong đó có trên 3,2 triệu khách hàng là hộ sản xuất và cá nhân trên địa bàn nông thôn (chiếm 88%)... Đây là điều kiện thuận lợi riêng có của Agribank trong việc tiếp cận các mô hình sản xuất kinh doanh mới trong nông nghiệp, cũng như truyền tải các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước.
Theo các chuyên gia, để phát huy hơn nữa vai trò tín dụng ngân hàng với tăng cường ứng dụng KHCN trong nông nghiệp cần phát triển mạnh các “ngân hàng xanh” và mở rộng dòng “tín dụng xanh”; đẩy mạnh hỗ trợ ứng dụng KHCN phục vụ sản xuất nông nghiệp trong các mô hình liên kết chuỗi giá trị, từ khâu cung ứng đầu vào đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ trong nước hay xuất khẩu...