Ký ức khoai deo
Nhà tôi ở vùng rốn lũ của Quảng Bình, nên ngay sau lũ là được cơ quan cho về giúp mẹ già dọn dẹp. Mẹ tôi một hộ một khẩu, không thuộc diện hộ nghèo, nhưng cũng được rất nhiều quà cứu trợ.
Gạo, mì gói, đường sữa, cá tôm khô… ngổn ngang một góc giường. Tôi giúp mẹ sắp xếp các thứ cho gọn gàng nơi khô ráo, chợt bắt gặp những gói khoai deo. Mẹ tôi nói đó là quà của bà con vùng Bố Trạch, Đồng Hới gửi cho dân làng mình ngay sau hôm lũ rút.
Đã lâu rồi mới gặp lại khoai deo, trong tôi bỗng trào lên bao kỷ niệm một thời lam lũ…
Ảnh minh họa |
Khoai deo là “đặc sản truyền thống” của Quảng Bình, được làm từ củ khoai lang luộc chín, thái lát rồi phơi khô. Lát khoai cứ héo dần, khô dần, bé dần… và nhăn nheo xù xì, nên gọi là khoai “deo”. Cái thứ quà quê mùa cực khổ đói kém xấu xí như vậy, nhưng là lương khô cứu đói của biết bao thế hệ dân quê. Nhiều nhà quanh năm bữa ăn nào cũng nồi khoai deo cõng lưa thưa vài hạt cơm.
Khoai deo không cần nấu, cứ để vậy ăn cũng được. Quà cáp cho nhau phần lớn cũng khoai deo. Nhiều cựu sinh viên các trường đại học ở Hà Nội những năm 60-70 của thế kỷ trước cũng đã từng được thưởng thức khoai deo của đám sinh viên Quảng Bình, nay nhiều người gặp tôi còn nhắc chuyện...
Hồi chống Pháp, làng tôi có trung đội dân quân hoạt động rất tích cực, do bác mẹt Lợi làm trung đội trưởng. Mỗi khi có báo động tập trung, mỗi dân quân đều có túm khoai deo mang theo làm lương khô. Một hôm, đơn vị có báo động hành quân, bác mẹt Lợi đi đầu hàng quân phát mệnh lệnh xuống, cứ người đi trước truyền khẩu cho người đi sau.
Bố tôi là “chính ủy trung đội” đi khóa đuôi, nhận được mật lệnh truyền xuống: “Mẹt Lợi mất túi khoai deo!”. Lập tức ông truyền lệnh ngược trở lên: “Cử hai đồng chí quay lại tìm túi khoai deo cho mẹt Lợi!”. Lại cứ người sau truyền khẩu lên cho người trước, đến bác mẹt Lợi đi trên cùng thì ông tá hỏa: “Túm khoai deo của tui còn đây mà!”. Phân giải một hồi, thì ra mật lệnh ban đầu là: “Mẹt Lợi đi trước, tất cả bám theo!”. Nhưng vì truyền khẩu tam sao thất bản, một lúc thì thành ra là: “Mẹt Lợi mất túm khoai deo”.
Những năm giữa thập niên 60 của thế kỷ trước, tôi đang học cấp 1, có bà dì ruột học nghề ở Liên Xô, quen một chú bộ đội quê tận Ba Đồn, là học viên trường sĩ quan tên lửa bên đó. Năm ấy chú về phép, lên thăm nhà tôi. Mẹ tôi xúc một rá khoai deo, bọc vào tấm vải dù pháo sáng tàu bay Mỹ, gửi làm quà cho dì. Hơn một tháng sau người ta chuyển trả lại bọc khoai deo, bảo là ra Hà Nội họ kiểm tra, thấy có vi khuẩn gì đó, vì khoai phơi ngoài trời ruồi nhặng bu đầy, nên họ không cho mang sang Liên Xô.
Ngày Hiến chương các Nhà giáo (20/11) năm đó, mẹ cho tôi cả bọc khoai deo ấy mang đi biếu cô giáo. Cô bảo sao cho cô nhiều thế? Tôi thành thật thưa cô bọc khoai này mẹ em gửi cho dì ruột bên Liên Xô, nhưng ra Hà Nội họ trả lại vì có vi trùng ruồi nhặng. Cô nói nhà cô nhiều khoai deo rồi, cho em mang về mà ăn. Tôi lon ton mang về, thuật lại đầu đuôi không sót một lời. Mẹ tôi vớ cái vỉ đập ruồi, vút cho tôi một phát vào mông: Ngu, ai bảo mi nói như rứa?
Những năm ấy, chiến tranh phá hoại ác liệt lắm. Nhà nước có chủ trương đưa con em Quảng Bình đi K8 ra Bắc sơ tán. Bạn cùng lứa với tôi đi K8 nhiều lắm. Thằng Trung xóm Bàu Mác ra Thanh Hóa hay Ninh Bình gì đó, được mấy tháng thì mẹ hắn là bác cu Sâm nhớ quá lần mò ra thăm. Lúc về, bác mang theo một túi khoai lang bảo là ngon lắm, để làm giống. Giống khoai “ngon lắm” ấy vỏ trắng, da trơn, lá nhỏ, chỉ hơn 2 tháng đã cho củ lúc nhúc như trứng ngỗng trứng vịt và rất bùi, luộc chín bẻ ra bột rơi lả tả.
Cả làng tôi gọi là khoai Cu Sâm. Phải tội khoai Cu Sâm bùi quá, luộc ăn ngay thì ngon, chứ làm khoai deo để dành thì cứng như đá. Dần dần mọi người lại quay về với giống khoai lang quê nhà: lá to, củ dài, vỏ đỏ, ít bột, nhiều mật... Khoai lang đất cát quê tôi luộc bằng nồi gang đúc từ xác tàu bay Mỹ, vừa chín tới thì chắt kiệt nước rồi hầm lâm râm trên than bếp một hồi nữa là chảy mật ra vàng óng. Loại ấy mà làm khoai deo thì vừa mềm vừa ngọt, ngon không sao tả xiết!
Chú ruột tôi đi thanh niên xung phong, san lấp hố bom trên đường 20 Quyết Thắng. Chú viết thư về nói từ khi đi “hỏa tuyến” được ăn đủ thứ ngon. Thịt hộp, lương khô, đường sữa... toàn của Trung Quốc, Liên Xô thượng hạng. Nhưng chú vẫn nhớ, vẫn thèm khoai deo lắm lắm...
Bà nội tôi thương chú, lụi cụi mấy hôm luộc luộc, thái thái, phơi phơi... được một thúng khoai deo. Bà mua cái sọt tre, lót xung quanh một lớp lá xoan, lại lót thêm một lớp lá chuối khô rồi đổ khoai deo vào. Mặt trên cũng đậy một lớp lá chuối, tiếp thêm một lớp lá xoan, rồi khỏa thêm một lớp tro bếp. Cẩn thận thế thì đố có con sâu mọt nào dám chui vào được. Bà kê sọt khoai deo cạnh tấm phản ngựa giữa nhà, nhỡ tàu bay Mỹ thả na-pan hay bắn rốc-két thì thứ phải vác đầu tiên ra vườn là sọt khoai deo.
Rất may là nhà bà tôi chưa bao giờ dính na-pan hay rốc-két. Cái sọt khoai vẫn ngày ngày chiễm chệ giữa gian nhà khiêu khích cái dạ dày lúc nào cũng có kiến bò của tôi. Chịu không nổi, một buổi sáng trước lúc đi học, tôi lấy cái thước học trò chọc một lỗ qua 2 lớp lá dưới đáy sọt rồi thò tay móc mấy lát khoai deo... Từ đó, thỉnh thoảng sọt khoai deo lại mất thêm một dúm.
Mấy tháng sau có chú gì cùng đơn vị chú tôi về phép, bà tôi hăm hở mở sọt xúc khoai deo thì... ôi thôi rồi, sọt khoai bị rỗng hàm ếch một góc to tướng. Tai hại hơn là số khoai deo còn lại bị mọt ăn bấy bá. Tôi tái mặt lỉnh ra sau hồi nhà, dỏng tai nghe bà nội than vãn con mèo sợ bom Mỹ mà trốn biệt tăm, để bầy chuột lộng hành bất trị(!).
Bà tôi bây giờ đã thành người thiên cổ. Dân quê tôi bây giờ không còn phải nhai khoai deo thay cơm. Khoai deo Quảng Bình nay là đặc sản đúng nghĩa. Lát khoai deo được sản xuất theo quy trình khép kín hiện đại, có bao bì đẹp, nhãn mác hẳn hoi…
Khoai deo Quảng Bình rất ăn khách ở siêu thị Đồng Hới, mini mart Ba Đồn và các tiệm fast food ở động Phong Nha, động Thiên Đường… Chao ơi, thật lãng mạn khi nghe nói trong ba lô của các đoàn du khách ngoại quốc thám hiểm hang Sơn Đoòng nức tiếng khắp thế giới, có cả những gói khoai deo thảo thơm của mảnh đất gió Lào cát trắng quê tôi…