Mấu chốt là chọn ngành đầu tư trọng điểm
Gần 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa sẵn sàng cho CMCN 4.0 | |
Cần xác định lại năng lực cạnh tranh quốc gia | |
Doanh nghiệp Việt sẵn sàng đầu tư chuyển đổi sang kỷ nguyên số |
Đối với các quốc gia phát triển như Mỹ hay Đức thì tiềm năng thực hiện CMCN 4.0 là vô hạn, trong khi Việt Nam rất hạn chế. Vì vậy nếu không chỉ ra được các hạn chế cũng như tiềm năng để lựa chọn một số ngành mà tập trung đầu tư vào đó thì không thể đạt hiệu quả. GS. Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài đã đặt vấn đề thẳng thắn tại Hội thảo “Một số định hướng tái cơ cấu kinh tế Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0”, do Trung tâm Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF), Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức ngày 22/11.
DN Việt Nam đã bước đầu tận dụng được thành quả của CMCN 4.0 |
Tránh “vết xe đổ” dàn trải, lãng phí
GS. Nguyễn Mại cho rằng, câu chuyện ứng dụng CMCN 4.0 vào phát triển kinh tế đã được bàn khá nhiều, song vấn đề cần tập trung là lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực nào thì đều vắng bóng trong các nghiên cứu hiện nay. Theo đó, kể cả Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng chiến lược rất lớn, Ban Kinh tế Trung ương có chiến lược công nghiệp 4.0, song đưa ra quá nhiều mảng, ngành nghề. “Tôi cho rằng chúng ta đã lãng phí rất nhiều, đưa ra rất nhiều ngành không nên làm trong quá trình phát triển”, ông Mại thẳng thắn nói.
Đánh giá các kết quả nghiên cứu về CMCN 4.0 hiện nay, GS. Nguyễn Mại cho rằng phương pháp tiếp cận trong các nghiên cứu này rất cổ điển. Chúng ta vẫn nói lại những câu chuyện muôn thuở, loanh quanh các vấn đề lao động giá rẻ, DNNVV, tiếp cận vốn... Trong khi đó, đáng lẽ cần cập nhật hơn một số thông tin mới diễn ra ngay cuối năm 2018, sẽ thấy có rất nhiều ngành nghề tiềm năng mà Việt Nam có thể dẫn đầu trong CMCN 4.0, từ đó tập trung đầu tư phát triển.
Chẳng hạn mới đây truyền thông đưa tin Việt Nam đã nghiên cứu sản xuất được thiết bị đấu nối các cụm để phát triển 5G vào năm 2019 và sẽ thí điểm 3 cụm. Đến năm 2020 sẽ thực hiện trên toàn lãnh thổ. Theo Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Việt Nam sẽ đi nhanh trong thực hiện 5G.
Hoặc hôm giữa tuần vừa qua có một sự kiện tuy là của một tập đoàn nhưng có ý nghĩa đối với CMCN 4.0, đó là trình làng xe Vinfast. Ông Mại cho biết, ông đã nghiên cứu về đầu tư nước ngoài nhiều năm nay và thấy rằng cách Vingroup thực hiện khác hoàn toàn với những nhà sản xuất ô tô Việt Nam cũng như thế giới từ trước tới nay. Vì vậy tập đoàn này tiến rất nhanh, chỉ sau 2 năm vừa xây dựng vừa nghiên cứu đã cho ra đời các mẫu ô tô trình làng ở Paris. Bên cạnh đó, họ còn đầu tư vào công nghệ xanh, nông nghiệp, sản xuất điện thoại thông minh, nghiên cứu dữ liệu lớn; bỏ ra 300 triệu USD để tài trợ cho tất cả các sáng kiến và phát minh mới của các học sinh giỏi của Việt Nam. Hoặc Tập đoàn FPT đã đầu tư công nghệ nhiều năm, sau đó mở rộng sang giáo dục, ô tô tự động và bây giờ đã bắt đầu không làm các gói nhỏ mà tập trung làm dịch vụ cho toàn bộ tập đoàn công nghệ thông tin hàng đầu thế giới.
“Điểm nổi bật của CMCN 4.0 chính là tốc độ, nếu không kịp thời cập nhật thì năm 2019 chắc chắn thay đổi sẽ đến rất nhanh, chúng ta sẽ lạc hậu và khó hoạch định được các chính sách lớn”, ông Mại cảnh báo.
Chuẩn bị kỹ để tận dụng cơ hội
Mặc dù đã có một số thành tựu trong ứng dụng CMCN 4.0 vào phát triển kinh tế, song theo TS. Trần Hồng Quang - Giám đốc NCIF, hiện nay Việt Nam vẫn đang duy trì mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào khai thác lợi thế về tài nguyên, gia công lắp ráp và phát triển sản xuất, xuất khẩu những ngành thâm dụng lao động và có kỹ năng thấp. Tuy nhiên, những lợi thế này đang mất dần. Vì vậy, không chỉ mỗi ngành, lĩnh vực mà toàn bộ xã hội đều phải chuẩn bị kỹ lưỡng cho sự sẵn sàng tận dụng tối đa cơ hội và hạn chế tối thiểu thách thức trước cuộc cách mạng này.
TS. Lương Văn Khôi - Phó Giám đốc NCIF khuyến cáo, đổi mới chính là chìa khoá để nâng cao năng suất và cải thiện sức cạnh tranh của DN, ngành và nền kinh tế. Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra sôi động trên toàn thế giới, đổi mới sáng tạo là yếu tố cốt lõi để DN không bị tụt hậu và ra khỏi thị trường. Từ đó, ông chỉ ra một số nhân tố tác động đến quyết định đổi mới đối với DN Việt Nam.
Ông Khôi lưu ý, nghiên cứu của cơ quan này cho thấy chuyển giao công nghệ từ nhà cung cấp tăng khả năng tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) thêm 1%, trong khi hợp tác nghiên cứu giúp tăng tới 11,63% khả năng đổi mới. Như vậy, hàm ý thông tin ở đây là các DN trong nước cần chủ động tham gia vào hoạt động R&D và hợp tác với các đối tác khác, thay vì thụ động chờ được chuyển giao công nghệ.
Các nghiên cứu của NCIF cũng cho thấy, DN có doanh thu lớn hơn hoặc quy mô lao động lớn hơn có nhiều khả năng thực hiện R&D hơn. Cùng với đó, chỉ khi vượt qua một số năm hoạt động nhất định với kinh nghiệm hoạt động nhất định thì DN mới đủ khả năng đổi mới.
Ngoài ra, DN có mức trang bị kỹ thuật cao hoặc nằm trong ngành có trình độ công nghệ cao hơn có nhiều lợi thế hơn để thực hiện hoạt động đổi mới. DN thuộc ngành công nghệ trung bình cao hoặc cao có nhiều khả năng tham gia hoạt động R&D hơn DN thuộc ngành công nghệ trung bình hoặc công nghệ thấp. DN đa dạng hoá sản phẩm có nhiều khả năng thực hiện hoạt động R&D hơn DN chỉ sản xuất một sản phẩm hàng hoá. Cuối cùng, thị trường càng tập trung càng làm giảm khả năng đổi mới của DN, hàm ý là DN cần mở rộng thị trường, không chỉ phục vụ trong nước mà cần tham gia xuất khẩu.