Tháo rào cản xuất khẩu lao động
Vay vốn để xuất khẩu lao động, cần lưu ý gì? | |
Thận trọng với xuất khẩu lao động | |
Xuất khẩu lao động theo hướng bền vững |
Theo Cục Quản lý lao động nước ngoài, trong 5 năm giai đoạn 2013 - 2017, số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tăng mạnh, trung bình tăng 10%/năm (tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài năm 2017 đạt 134.751 người, bằng 153% năm 2013). Trong đó ghi nhận sự tăng nhanh tại các thị trường có thu nhập cao, ổn định như thị trường Nhật Bản và Đài Loan, giảm mạnh ở các thị trường có thu nhập trung bình như Malaysia, Trung Đông và Bắc Phi. Riêng người lao động là đối tượng thuộc các chính sách hỗ trợ để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chiếm khoảng 10%.
Bên cạnh nguồn tín dụng từ ngân sách trung ương, một số địa phương có các chính sách cho vay đối với người lao động cư trú trên địa bàn từ nguồn ngân sách của tỉnh, ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội như Vĩnh Phúc, Bến Tre, Tiền Giang, An Giang, Ninh Thuận, Bình Định, Lâm Đồng, Thừa Thiên - Huế, Trà Vinh, Hải Dương, Khánh Hòa… hoặc ưu tiên trích từ nguồn thu hồi cho vay từ Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm để cho vay xuất khẩu lao động (như Quảng Ngãi, Bến Tre, Sóc Trăng…).
Các chính sách hỗ trợ cho vay vốn để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tại Ngân hàng Chính sách xã hội đã góp phần tạo việc làm cho khoảng 115 ngàn lao động, mở ra cơ hội làm việc ở nước ngoài cho người lao động thuộc các huyện nghèo, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo… tạo điều kiện để người lao động có việc làm và thu nhập ổn định. Tính đến cuối tháng 9/2018, dư nợ cho vay xuất khẩu lao động đạt 722 tỷ đồng, với trên 15 nghìn hộ vay còn dư nợ.
Dù các chương trình tín dụng chính sách hỗ trợ xuất khẩu đã phát huy tác dụng, song Phó Cục trưởng Cục Quản lý Lao động nước ngoài Phạm Viết Hương đã chỉ ra nhiều quy định đã không còn phù hợp, giảm sức hỗ trợ đối tượng chính sách có nhu cầu xuất khẩu lao động trong bối cảnh mới của thị trường,
Thực tế cho thấy các thị trường có thu nhập trung bình (như Malaysia, một số nước Trung đông, Bắc Phi) không còn thu hút được người lao động. Người lao động Việt Nam hiện nay chủ yếu đi làm việc tại các thị trường có thu nhập cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Châu Âu. Các thị trường này có chi phí để đi làm việc khá cao, trung bình ở mức 70-80 triệu đồng/hợp đồng. Với mức quy định người lao động thuộc đối tượng chính sách được vay không cần tài sản đảm bảo, tối đa là 50 triệu đồng hiện nay không còn phù hợp. Người lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, dân tộc không có tài sản thế chấp để vay các khoản lớn hơn 50 triệu đồng.
Hay như Nghị định số 61/2015/NĐ-CP có hiệu lực từ tháng 9/2015, việc triển khai cho vay còn hạn chế do nguồn ngân sách nhiều địa phương không bố trí được nguồn, Quỹ quốc gia về việc làm cũng chưa được bổ sung nguồn vốn để cho vay đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Bên cạnh đó, nhiều lãnh đạo sở ngành cũng đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét bỏ ưu tiên về lãi suất đối với người lao động là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Bởi theo Nghị định số 61/NĐ-CP của Chính phủ, có quy định đối với người lao động hộ là đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, được hưởng lãi suất cho vay bằng 50% lãi suất hộ nghèo. Trong khi đó, hộ nghèo là người dân tộc thiểu số tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn vay vốn hộ nghèo vẫn chịu lãi suất bằng với lãi suất cho vay hộ nghèo. Điều này không tạo ra sự công bằng giữa các đối tượng thụ hưởng các chương trình tín dụng chính sách.
Ngoài ra, hiện vẫn còn DN tuyển dụng lao động chưa đúng với quy định hoặc tuyển dụng lao động không phù hợp với công việc; không cung cấp đầy đủ hoá đơn, chứng từ thu tiền của DN, thiếu thông tin về các khoản chi phí người lao động trước khi đi, khiến cho việc vay vốn của người lao động gặp khó khăn, ngân hàng không đủ căn cứ để giải ngân vốn vay cho người lao động…
Chính vì vậy, bên cạnh việc tăng cường kiểm tra giám sát, chấn chỉnh hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Cục Quản lý lao động nước ngoài đề xuất với các cơ quan chức năng nâng mức cho vay không cần tài sản đảm bảo đối với người lao động thuộc diện chính sách để đi làm việc ở nước ngoài lên mức 100 triệu đồng/người/hợp đồng hoặc cho phép các địa phương có thể quy định mức cho vay tối đa đối với nguồn vốn ủy thác cho vay đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Đồng thời xem xét bổ sung nguồn vốn của Quỹ quốc gia về việc làm để cho vay đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.