Chỉ số kinh tế:
Ngày 5/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.151 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.944/26.358 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Vì sao lãi suất cho vay khó giảm?

Chí Kiên
Chí Kiên  - 
Theo các chuyên gia tài chính – ngân hàng, phải có sự hỗ trợ từ nhiều chính sách như phát triển thị trường vốn để giảm áp lực cho tín dụng, có giải pháp ngăn chặn đầu cơ bất động sản, giữ ổn định VND mới giảm được lãi suất cho vay.  
aa
Vì sao lãi suất cho vay khó giảm? Thêm ngân hàng giảm lãi suất cho vay
Vì sao lãi suất cho vay khó giảm? Lãi suất cho vay đang khá cạnh tranh
Vì sao lãi suất cho vay khó giảm? NH đầu tiên giảm lãi suất cho vay sau quyết định giảm lãi suất của NHNN

Đợt giảm lãi suất huy động của một số ngân hàng vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4 vừa qua đã khiến không ít doanh nghiệp xao động và hy vọng lãi suất cho vay có thể được điều chỉnh giảm nay mai. Tuy nhiên, lãnh đạo các nhà băng và giới chuyên gia tài chính – ngân hàng đều cho rằng, xét trên diễn biến thị trường tiền tệ cũng như kinh tế vĩ mô thì trong ngắn hạn vẫn khó có thể giảm lãi suất cho vay.

Vì sao lãi suất cho vay khó giảm?
Các ngân hàng cho rằng, rất khó giảm lãi suất cho vay trong ngắn hạn

Theo lãnh đạo các ngân hàng, đợt giảm lãi suất huy động mới đây nhiều khách hàng cũng gọi tới ngân hàng hỏi về mức lãi suất cho vay thời gian tới có giảm không? “Đúng là với khách hàng đi vay thì bao giờ cũng muốn vay nguồn vốn giá rẻ nhất, khiến ngân hàng chịu nhiều áp lực.” – Phó tổng giám đốc một NHTMCP chia sẻ.

Bản thân các ngân hàng luôn phải áp lực trước sự cạnh tranh lãi suất với nhau. Khi ngân hàng bạn có mức lãi suất cạnh tranh thì mình cũng phải tính toán để đưa ra lãi suất giữ chân khách hàng chứ chưa nói tới cạnh tranh để kéo khách hàng về mình. Nói như vậy để thấy, bên cạnh sự cạnh tranh dịch vụ, thủ tục cho vay thì lãi suất cho vay cũng phải cạnh tranh.

Tuy nhiên các ngân hàng đều cho rằng, đợt giảm lãi suất huy động vừa qua không phải là đại trà mà chỉ ở một vài ngân hàng dư thừa nguồn vốn huy động ngắn hạn, một phần cân đối lại nguồn theo hướng khuyến khích khách gửi tiền ở kỳ hạn dài.

“Việc giảm lãi suất cho vay đang là rất khó khăn” – Tổng giám đốc NHTM Nhà nước chia sẻ và cho rằng, vừa hồi đầu năm nhiều ngân hàng đã điều chỉnh giảm lãi suất cho vay từ 0,5% - 1%/năm nên sẽ khó có đợt giảm tiếp theo chỉ trong thời gian ngắn như vậy. Bởi để tính toán giảm lãi suất các ngân hàng phải dựa trên dòng vốn đầu vào, đầu ra và phải có độ trễ, chứ không phải nói giảm là giảm ngay được.

Phân tích về khả năng giảm lãi suất cho vay, nhiều chuyên gia cho rằng, giảm lãi suất còn phải tính toán trên cơ sở diễn biến kinh tế vĩ mô và cân đối giữa huy động và cho vay. TS. Vũ Viết Ngoạn – Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng cho rằng, ngoài yếu tố sức ép lạm phát còn có lãi suất USD có xu hướng tăng hơn mà chính sách tiền tệ của Việt Nam là đa mục tiêu, phải quan tâm rất nhiều cho ổn định tỷ giá, giữ chênh lệch ở mức độ hợp lý để người dân gửi tiết kiệm VND.

“Lãi suất giảm thì đương nhiên kích thích doanh nghiệp vay vốn sản xuất kinh doanh. Nhưng phải giảm sâu được lãi suất huy động thì mới có điều kiện giảm lãi suất cho vay. Đây là cả một câu chuyện dài, một bài toán phải tính thận trọng.” - ông Đỗ Văn Sinh - Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chia sẻ.

Theo ông Sinh, giảm lãi suất cho vay một cách căn cơ thì phải kết hợp với nhiều chính sách khác chứ một mình ngân hàng không làm được. Ví dụ như phải có sự phối hợp của tài khóa để đẩy mạnh thị trường vốn, giảm phụ thuộc vào ngân hàng thì mới giảm áp lực vốn tín dụng; cùng với đó thị trường bất động sản cũng phải được quản lý tốt, giảm đầu cơ nhà đất, phải làm sao xóa đi suy nghĩ đầu tư nhà đất vẫn có lãi hấp dẫn thì khi đó người dân mới gửi tiền ngân hàng.

Vừa rồi Bộ Tài chính cũng có định hướng nghiên cứu dự thảo Luật Thuế tài sản với mong muốn chống đầu cơ nhà đất. Nhưng nghiên cứu phải khoa học và phù hợp với thực tiễn để làm sao để tránh việc đầu tư vào những lĩnh vực không khuyến khích là bất động sản song phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đất nước thì mới giúp người dân tập trung vào sản xuất, kinh doanh và tiền nhàn rỗi vào ngân hàng.

“Nói chung phải kết hợp hài hòa chính sách tài khóa, tiền tệ, bất động sản và một số chính sách khác để tạo sự ổn định cho VND, khi đó người ta mới yên tâm gửi tiền ngân hàng. Có như vậy thì bài toán giảm thêm lãi suất cho vay mới có thể thành hiện thực”, ông Sinh phân tích.

Chí Kiên

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ V: Thoi bạc

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ V: Thoi bạc

Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), triều đình ban hành quy định đúc bạc kiểu mới, mỏng hơn, có dấu niên hiệu, năm đúc, tên tỉnh và chữ “nội thảng”. Mỗi tỉnh (trừ Hà Tĩnh, Quảng Bình, Ninh Bình) được cấp khuôn đúc bạc 10 lạng và 1 lạng. Bộ Hộ quy định bạc không có dấu đúng chuẩn chỉ lưu hành đến tháng Giêng năm Thiệu Trị thứ 6 (1846). Dân muốn đúc lại phải nộp đơn, trả công thợ. Năm tỉnh Thừa Thiên, Gia Định, Hà Nội, Bình Định, Nghệ An lập sở đúc, quan sở tại quản lý việc đúc bạc.
Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ III: Tiền đồng lớn

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ III: Tiền đồng lớn

Vua Thiệu Trị (1841 - 1847) là vị hoàng đế thứ ba của triều Nguyễn. Trong thời gian trị vì, nhà vua tiếp nối chính sách của vua Minh Mạng, đồng thời có những cải cách riêng. Về tiền tệ, Thiệu Trị cho phát hành tiền đồng gọi là Thiệu Trị Thông Bảo. Loại tiền này được đúc bằng đồng, hình tròn, giữa có lỗ vuông theo truyền thống “tiền cổ phương trung” của Á Đông, vừa thuận tiện xâu thành chuỗi, vừa mang ý nghĩa trời tròn đất vuông.
Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ II: Tiền đời vua Trần Thái Tông (1225-1258)

Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ II: Tiền đời vua Trần Thái Tông (1225-1258)

Vua Trần Cảnh lên ngôi tháng 12 năm Ất Dậu (1225), sau khi mất, miếu hiệu là Thái Tông. Vua Trần Thái Tông tại vị 33 năm, đặt 3 niên hiệu: Kiến Trung (1225-1231), Thiên Ứng Chính Bình (1232-1250) và Nguyên Phong (1251-1258).
Tiền triều Đinh (970-980)

Tiền triều Đinh (970-980)

Sự ra đời của đồng tiền Thái Bình hưng bảo là một trong những tiêu chí, góp phần khẳng định nền độc lập tự chủ của dân tộc...
Quy định mới về quản lý seri tiền mới in của NHNN

Quy định mới về quản lý seri tiền mới in của NHNN

NHNN Việt Nam vừa ban hành Thông tư 01/2024/TT-NHNN quy định về quản lý seri tiền mới in của NHNN. Thông tư này quy định việc quản lý seri tiền mới in đối với các loại tiền giấy của NHNN được thực hiện từ khi cấp vần seri, sử dụng vần seri trong quá trình in tiền cho đến khi tiền mới in được phát hành vào lưu thông.
VPBank dành hàng tỷ đồng tri ân khách hàng SME dịp sinh nhật 30 năm

VPBank dành hàng tỷ đồng tri ân khách hàng SME dịp sinh nhật 30 năm

1.200 quà tặng trị giá tới hàng tỷ đồng sẽ được đặc biệt dành tặng cho các khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) từ nay đến 30/10/2023. Đây là chuỗi chương trình tri ân nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập VPBank mang tên “VPBank 30 năm - SME Vươn mình thịnh vượng”.
Cuốn sách “Lịch sử đồng tiền Việt Nam” đạt giải B Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ V

Cuốn sách “Lịch sử đồng tiền Việt Nam” đạt giải B Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ V

Tối 3/10, tại Nhà hát Đài Tiếng nói Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam phối hợp tổ chức Lễ trao Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ V. Cuốn sách “Lịch sử đồng tiền Việt Nam” do TS. Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chỉ đạo biên soạn đã xuất sắc đạt giải B.