Ba câu chuyện về tiền - vàng trong lịch sử
Về người chiến sĩ ngân tín | |
Nhà ngân hàng Lê Viết Lượng | |
Thống đốc và những chuyến “vi hành” |
Kho tiền khổng lồ không khóa
Trong lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam, có một vùng đất đã đóng góp rất nhiều nhưng ít được nhắc đến trong các tư liệu chính thức, đó là Khu Tả ngạn sông Hồng - đơn vị hành chính - quân sự được thành lập tháng 5/1952, bao gồm thành phố Hải Phòng, các tỉnh Kiến An (nay thuộc Hải Phòng), Hải Dương, Hưng Yên và Thái Bình.
Giai đoạn từ đầu năm 1950 đến tháng 7/1954, trước âm mưu thực dân Pháp bắt dân ta phải tiêu tiền Đông Dương, cấm tiêu và tàng trữ tiền Ngân hàng Việt Nam (do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành), nếu ai không tuân lệnh sẽ bị khủng bố, chính quyền cách mạng khu Tả ngạn sông Hồng đã thực hiện chủ trương tẩy chay tiền Bảo Đại, thu hẹp địa bàn lưu hành tiền Đông Dương, mở rộng địa bàn lưu hành tiền Ngân hàng Việt Nam, dần dần tiến tới thực hiện độc chiếm thị trường bằng tiền ngân hàng. Một số lượng lớn tiền của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã được vận chuyển từ chiến khu về vùng Tả ngạn.
Nhà báo Hồng Quang sau khi hỏi chuyện một số người trực tiếp đi mang tiền Ngân hàng Việt Nam từ Hòa Bình, qua Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nam rồi vượt qua sông Hồng về Thái Bình, kể lại: “Một chặng đường dài, một trăm gánh tiền với hơn 100 người phải qua không biết bao nhiêu đồn bốt giặc. Bao ngày ăn ngủ thất thường. Nguy hiểm nhất là đoạn qua đường số 1 và sông Hồng. Bọn giặc thường xuyên phục kích để bắt cán bộ. Hàng trăm gánh tiền cất giấu trên địa bàn địch lùng sục suốt ngày đêm”.
Bác Vũ Kim Ngân, nguyên cán bộ ngân hàng khu Tả Ngạn, nay đã 98 tuổi kể: “Bảo vệ người, bảo vệ vũ khí, bảo vệ tài liệu đã khó, bảo vệ tiền của, vàng bạc còn khó hơn nhiều. Ở Thái Bình có “cái kho khổng lồ không khóa” vậy mà tiền vẫn không mất một đồng, vàng không mất một phân”, đó là nhờ tấm lòng kiên trung của người dân, trách nhiệm của cán bộ ngân hàng.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười cũng đã từng nói về chuyện này: “Ngân hàng Việt Nam có những chỗ để quản lý tiền, kể cả tiền Đông Dương và tiền Việt Nam trong mấy tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên. Ở đây không có kho của ngân hàng, cũng chẳng có két sắt mà toàn bộ tiền ngân hàng phân tán nhờ dân cất giữ hộ. Trong suốt những năm chiến tranh ác liệt, tiền ngân hàng gửi trong dân không mất đồng nào. Nhân dân ta tốt như thế đấy”.
Chiếc Honda CL 90 của “binh chủng tiền”
Thời kỳ 10 năm từ 1965 đến 1975 là thời kỳ cả nước đấu tranh kiên cường, sẵn sàng hy sinh tất cả cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Con người, vũ khí, lương thực thực phẩm, cùng mọi phương tiện khác từ miền Bắc đã được huy động tối đa cho miền Nam.
Một vấn đề cốt tử đầu tiên cũng được tính đến đó là tiền để nuôi bộ đội, duy trì hoạt động các cơ quan, đoàn thể cách mạng, xây dựng các cơ sở bí mật khắp thành thị và nông thôn miền Nam, mua những con đường an toàn và bí mật, để vận chuyển vũ khí đến các chiến trường.
Nhiều khi, tiền còn dùng để thuê cả những mảnh đất an toàn cho anh em cán bộ làm nhà tạm lánh bên nước bạn, để tránh những trận càn quét, những trận mưa bom.
Mặt trận miền Nam lúc này luôn luôn có một “binh chủng” rất quan trọng - Binh chủng tiền - với nhiều chiến sĩ, cán bộ ngân hàng hoạt động thầm lặng cả ở ngoài Bắc và trong Nam, cả trong và ngoài nước, như “một đơn vị đặc nhiệm” để vận chuyển tiền từ miền Bắc vào hỗ trợ cách mạng miền Nam. Tiền được chuyển bí mật bằng rất nhiều phương tiện: máy bay, tàu thủy, chuyển khoản, thậm chí bằng xe máy, xe đạp… Trong đó, đặc biệt là chiếc Honda CL 90 màu đỏ.
Chiếc xe máy này được đơn vị N2683 mua tại vùng biên giới Kampot (Campuchia) để chuyển một khối lượng tiền lớn từ PhnomPenh đến vùng giải phóng của miền Nam Việt Nam. Xe máy đã được giao cho đồng chí Lữ Minh Châu (Ba Châu) sử dụng để đi lại giữa Ban Kinh tài R và Trung ương Cục miền Nam. Khi đồng chí Ba Châu vào Sài Gòn (năm 1970) thì giao xe lại cho bộ phận chuyên chở tiền của N2683 cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Theo bác Ba Châu thì trong vòng 5 năm, từ 1970 đến 1975, chiếc Honda này đã chở hàng triệu đô la phục vụ cho cách mạng. Sau 30/4/1975, đơn vị giao chiếc xe này cho Ba Châu sử dụng tại Sài Gòn.
Mấy chục năm trôi qua, nhiều lần chuyển nhà, chiếc xe đã cũ và bắt đầu han gỉ, nhưng bác Ba Châu vẫn gìn giữ chiếc xe với ước muốn có ngày được trao lại cho Ngành làm hiện vật lịch sử. Ngày 22/8/2010, chiếc xe đã được bác Ba Châu bàn giao lại cho Phòng Truyền thống NHNN. Bây giờ chiếc xe là một trong những hiện vật quan trọng nhất của Phòng Truyền thống ngân hàng tại 49 Lý Thái Tổ, Hà Nội.
16 tấn vàng và giấc mộng về nền đệ nhị cộng hòa của Nguyễn Văn Thiệu
Sau ngày giải phóng miền Nam, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Cục ở miền Nam có Chỉ thị: “Gấp rút chuẩn bị bộ máy tiếp quản hệ thống ngân hàng, tín dụng, quản lý các kho tiền và kim khí quý, nắm tình hình hoạt động ngân hàng, tín dụng qua hồ sơ tài liệu và các nguồn khai thác”.
Việc tiếp quản hệ thống ngân hàng của chế độ cũ đã diễn ra nhanh gọn ở Sài Gòn và các tỉnh, thành phố. Sau này có nhiều nghi vấn về việc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuồn 16 tấn vàng của Ngân hàng Quốc gia miền Nam Việt Nam ra nước ngoài, nhưng tại Văn phòng Thống đốc Ngân hàng Quốc gia cũ, qua các hồ sơ tài liệu và các nguồn khai thác, ông Lê Hoàng, nguyên Phó tổng giám đốc NHNN cho biết, do sự “hợp đồng không chặt chẽ” giữa các bên liên quan, hoặc những lý do gì khác, nên số vàng (16 tấn chuẩn bị đưa ra sân bay Tân Sơn Nhất để chuồn sang Thụy Sỹ trước ngày Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng) đã không kịp xuất đi.
Dương Văn Minh trên đường đến Đài phát thanh tuyên bố đầu hàng |
Số vàng được lưu giữ tại kho của Ngân hàng Quốc gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: Vàng thoi mua của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ, vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi - Công ty Montagu - và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào. Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng từ 12 đến 14 kilô, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998).
Những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau: Những đồng tiền 20 đô la của Mỹ và 20 pesos của Mexico bằng vàng nguyên chất sáng loáng nặng đúng một lượng ta (37,5gram) mỗi đồng. Trên đồng pesos có khắc hình một con chim đại bàng, còn trên đồng đô la có khắc hình chim đại bàng. Trên cạnh mỗi đồng tiền có khắc những ngôi sao nhỏ trông rất đẹp...
Ngoài ra còn có những đồng tiền vàng của Pháp, có khắc chân dung của hoàng đế Napoleon rất sắc sảo, nhưng nhỏ hơn hai loại tiền vàng kia. Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó...
Sau khi tiếp quản hệ thống ngân hàng của chế độ cũ, chính quyền cách mạng đã nắm được công cụ phát hành tiền trong tay, đã nắm được kho tiền của Ngân hàng Quốc gia (thuộc chính quyền Sài Gòn cũ) và đã tập trung được quỹ tiền mặt của các ngân hàng tư nhân.
Ông Huỳnh Bửu Sơn, Kiểm soát viên Nha phát hành của Ngân hàng Quốc gia chế độ cũ, sau ngày giải phóng được lưu dụng làm việc tại Ngân hàng Quốc gia của chính quyền cách mạng nhớ lại: “... Vào đầu tháng 6/1975, tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia tiến hành kiểm kê kho tiền và vàng của chế độ cũ. Anh giám đốc Nha Phát hành đã đi cải tạo tập trung, do đó trong số người còn ở lại, chỉ có tôi là người giữ chìa khoá và anh Lê Minh Kiêm, Chánh sự vụ là người giữ mã số của các hầm bạc.
Thật ra, việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc mà chúng tôi làm thường xuyên hàng tháng, hàng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều đặc biệt là sau lần kiểm kê này, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi cũng chẳng thấy lo âu gì cả, vì biết chắc rằng các số tiền và số vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng một trăm phần trăm với sổ sách. Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân hàng Quốc gia vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an toàn…
Chúng tôi thực hiện công tác kiểm kê trong hai ngày liền. Chỉ trong một buổi sáng, chúng tôi đã kiểm kê xong số lượng giấy bạc dự trữ. Việc kiểm kê số vàng chiếm nhiều thì giờ hơn vì phải kiểm kê từng thoi vàng một... Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Việc “bàn giao” tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất...”.
Vậy là câu chuyện về 16 tấn vàng của Ngân hàng Quốc gia miền Nam Việt Nam mà Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dự định tuồn ra nước ngoài đã bị phá sản cùng với giấc mộng về nền đệ nhị cộng hòa của ông ta.
Vậy là câu chuyện về 16 tấn vàng của Ngân hàng Quốc gia miền Nam Việt Nam mà Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dự định tuồn ra nước ngoài đã bị phá sản cùng với giấc mộng về nền đệ nhị cộng hòa của ông ta.