CPTPP tạo thêm cơ hội cho người lao động
Hiệp định CPTPP: Các trường hợp miễn chứng nhận xuất xứ hàng hóa | |
Tăng cường phổ biến Hiệp định CPTPP cho người dân và doanh nghiệp |
Bên cạnh đó, nhóm cũng đưa ra một khuyến nghị đáng quan tâm đối với cơ quan quản lý. Đó là hiện nay ít người chú ý đến vai trò của các cơ chế giải quyết tranh chấp trong các hợp đồng kinh tế trong nước và quốc tế. Tuy nhiên đây lại là giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao niềm tin giữa các đối tác thương mại tiềm năng và thúc đẩy ký kết hợp đồng giữa DN trong nước với các thành phần kinh tế nước ngoài.
Theo nhóm nghiên cứu PCI 2018, dưới tác động của CPTPP, doanh thu của DN FDI và DN trong nước sẽ gia tăng thêm trên 4% và có cơ hội mở rộng ra ngoài phạm vi các đối tác kinh doanh hiện tại. Đối tác tiềm năng của những hoạt động mở rộng hợp tác làm ăn này chủ yếu là với các DN nằm trong chuỗi cung ứng toàn cầu, gồm các tập đoàn đa quốc gia, các nhà mua hàng bên thứ ba ở nước ngoài.
Đáng lưu ý, mức thuế gia tăng 10% của chính quyền Mỹ áp lên hàng hóa Trung Quốc có thể sẽ thúc đẩy cho xu hướng mở rộng kinh doanh và cải thiện đáng kể về quyền lợi người lao động trong các nhà máy tại Việt Nam. Khảo sát cho thấy, năm 2018, có tới 62% DN FDI sản xuất những mặt hàng nằm trong danh mục áp thuế của chính quyền Mỹ lên hàng hóa Trung Quốc đã sẵn sàng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh; và 89% đã tăng mức phân tán hoạt động đầu tư hiện tại. Trong khi đó các DN FDI trong các lĩnh vực mặt hàng khác có mức độ gia tăng hoạt động ít hơn đáng kể.
Về tác động cải thiện quyền lợi cho người lao động, TS. Edmund Malesky, Đại học Duke, Hoa Kỳ cho biết, các DN muốn tận dụng cơ hội xuất khẩu mới tới Hoa Kỳ, vì vậy họ cần tuyển dụng nhân lực có trình độ cao hơn. Khảo sát cũng chỉ ra rằng cải thiện về lao động sẽ chủ yếu liên quan tới tăng mức lương trung bình và tăng chi các khoản phúc lợi cho người lao động.
Cụ thể, những DN sản xuất hàng hóa nằm trong diện áp thuế sẵn sàng chi thêm 6,2% tổng chi phí hoạt động để cải thiện về lao động khi họ thấy có cơ hội xuất khẩu tới thị trường Mỹ thay vì là thị trường Trung Quốc. Những chi phí này tập trung vào mức lương và phúc lợi cao hơn. Các DN ít hào hứng hơn với việc chi tiêu vào tăng cường đảm bảo điều kiện lao động hoặc tăng cường đại diện của người lao động.
Một phát hiện đáng lưu ý khác được nhóm nghiên cứu PCI chỉ ra là các DN nước ngoài không mặn mà hợp tác với DN Việt Nam do nhận thấy nếu giao kết hợp đồng với DN bản địa thì sẽ khó giải quyết tranh chấp. Theo đó, họ thiếu niềm tin vào hệ thống toà án Việt Nam vì thời gian giải quyết tranh chấp dài, chi phí cao. Đó là lý do tại sao các DN FDI có xu hướng hợp tác với những DN trong mạng lưới của họ.
Mặc dù Việt Nam đang nỗ lực cải thiện vấn đề này, với việc ra đời các quy định liên quan tới trọng tài thương mại tiệm cận hơn chuẩn mức quốc tế, nhưng DN FDI vẫn thiếu tin tưởng. Bản thân DN cũng không biết có quy định pháp luật bảo vệ việc giao kết hợp đồng. Chỉ có 35,61% DN nắm được nội dung về trọng tài thương mại trong nước và 36% nắm được các quy định tương tự trong CPTPP.
Tuy nhiên, khi đặt câu hỏi “Nếu được biết về cơ chế bảo vệ pháp lý mới sẵn có trong Chương 28 Hiệp định CPTPP, liệu DN có tự tin hơn để giao kết hợp đồng/làm ăn với những đối tác mới tại Việt Nam?”, kết quả thu được cũng không mấy khả quan.
Theo đó, với các DN dân doanh trong nước, mức gia tăng doanh thu dự đoán là 1,65% đối với những DN được cung cấp thông tin về Luật Trọng tài thương mại và 4,3% với nhóm được cung cấp thông tin về CPTPP. Với các DN FDI, sự khác biệt còn nhỏ hơn. Như vậy, đối tác hợp tác kinh doanh chắc chắn nhất cho các hoạt động gia tăng là các DN FDI, tập đoàn đa quốc gia và DN mua hàng bên thứ ba nước ngoài, chính xác là những bên tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu.
“CPTPP có tác động tích cực tới việc mở rộng đối tác tiềm năng ra các DN dân doanh trong nước, song quy mô của việc mở rộng này là rất nhỏ. Dù vậy, hiệu ứng có thể cao hơn nếu như các DN biết nhiều hơn về các cơ chế bảo vệ pháp lý sẵn có cho họ”, TS. Edmund Malesky khuyến nghị.