Điểm lại thông tin kinh tế tuần 4-8/3
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 5/3 Điểm lại thông tin kinh tế ngày 6/3 |
Điểm lại thông tin kinh tế |
Tổng quan
Phân bổ cũng như giải ngân vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước 2 tháng đầu năm 2024 đều nhanh hơn so với cùng kỳ 2023.
Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch đầu tư công vốn ngân sách nhà nước năm 2024 cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương là 657.349 tỷ đồng, bao gồm vốn ngân sách trung ương 225.000 tỷ đồng (vốn trong nước 205.000 tỷ đồng, vốn nước ngoài 20.000 tỷ đồng); vốn ngân sách địa phương 432.349 tỷ đồng.
Trong đó, tổng số kế hoạch bố trí cho các dự án quan trọng quốc gia, dự án cao tốc, liên vùng, đường ven biển, dự án trọng điểm khác là 92.900 tỷ đồng; các dự án, nhiệm vụ thuộc 3 chương trình mục tiêu quốc gia là 27.220 tỷ đồng.
Ngoài ra, kế hoạch vốn cân đối ngân sách địa phương năm 2024 các địa phương giao tăng so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao là 32.427 tỷ đồng; kế hoạch vốn các năm trước đã được cho phép kéo dài tính đến cuối tháng 2 là 105,2 tỷ đồng.
Như vậy, tổng kế hoạch giao năm 2024 đến cuối tháng Hai, gồm kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, kế hoạch vốn cân đối địa phương giao tăng, kế hoạch các năm trước chuyển sang lên tới 689.881,2 tỷ đồng.
Theo Báo cáo của Bộ Tài chính, ước thanh toán đầu tư công từ nguồn ngân sách nhà nước từ đầu năm đến ngày 29/02/2024 là 59.998,1 tỷ đồng, đạt 8,7% kế hoạch (đạt 9,13% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Cùng kỳ năm 2023 con số này đạt 6,55% kế hoạch và đạt 6,97% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Cụ thể, vốn đầu tư thực hiện do ngân sách trung ương quản lý ước đạt 9,5 ngàn tỷ đồng, bằng 8% kế hoạch năm và giảm 8,8% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư thực hiện do ngân sách địa phương quản lý ước đạt 50,3 ngàn tỷ đồng, bằng 8,5% kế hoạch năm và tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước.
Liên quan đến tình hình thực hiện các dự án trọng điểm, đến hết ngày 31/01/2024, tổng số vốn giải ngân của 09 dự án quan trọng quốc gia ngành giao thông vận tải là 4.463,21 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 6,63% kế hoạch năm 2024 được giao (67.365,78 tỷ đồng), trong đó, vốn ngân sách trung ương là 4.230,67 tỷ đồng, đạt 6,82%; vốn ngân sách địa phương là 232,54, đạt 4,35%.
Về việc phân bổ vốn, tổng số vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước đã phân bổ năm 2024 là 664.484,9 tỷ đồng, đạt 101,09% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ đã giao (657.349 tỷ đồng). Nếu không tính số kế hoạch vốn cân đối ngân sách địa phương các địa phương giao tăng nói trên thì tổng số vốn đã phân bổ là trên 632.057 tỷ đồng, đạt trên 96% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ đã giao.
So với cùng kỳ năm ngoái, tính đến cuối tháng 2/2023, nguồn vốn này mới được phân bổ hết 95,05% kế hoạch vốn Thủ tướng giao. Còn nếu không tính số kế hoạch vốn cân đối ngân sách địa phương các địa phương giao tăng thì tỷ lệ này chỉ đạt 88,75% số vốn Thủ tướng giao. Như vậy, việc phân bổ kế hoạch vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước năm nay nhanh hơn nhiều so với năm ngoái.
Với phần vốn đầu tư công năm 2024 chưa phân bổ hết, theo Bộ Tài chính, có nhiều nguyên nhân. Đối với nguồn vốn ngân sách trung ương, vốn trong nước chưa phân bổ là 6.196 tỷ đồng do các bộ, ngành, địa phương dự kiến bố trí cho các dự án khởi công mới nhưng chưa hoàn thiện thủ tục đầu tư; các dự án, nhiệm vụ đang trình Thủ tướng Chính phủ cho phép kéo dài thời gian bố trí vốn để thực hiện và hoàn thành; các dự án, nhiệm vụ đang tổng hợp để trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn làm căn cứ bố trí trong kế hoạch năm 2024... Vốn nước ngoài chưa phân bổ chi tiết là 1.767 tỷ đồng do vướng mắc trong công tác đấu thầu; các dự án đang đàm phán, ký kết Hiệp định sử dụng vốn ODA; chờ Thủ tướng Chính phủ bổ sung kế hoạch trung hạn để giao kế hoạch năm 2024; chưa có dự án để bố trí tiếp... Vốn chương trình mục tiêu quốc gia chưa phân bổ là 2.789,9 tỷ đồng do nhiều dự án khởi công mới đang thực hiện lập, phê duyệt dự án nên chưa đủ điều kiện để phân bổ vốn.
Năm 2024, đầu tư công vẫn được xác định là động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng, là vốn mồi dẫn dắt, thu hút tối đa các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Để đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn này, từ đầu tháng 1/2024, Bộ Tài chính đã có công văn số 405/BTC-ĐT đôn đốc các bộ, ngành, địa phương phân bổ, nhập dự toán Tabmis (Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc) và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước năm 2024. Trong các báo cáo của mình, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như Bộ tài chính đặt mục tiêu phấn đấu giải ngân đầu tư công năm 2024 đạt trên 95% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Tóm lược thị trường trong nước từ 4-8/3
Thị trường ngoại tệ trong tuần từ 4-8/3, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng đầu tuần rồi giảm trở lại phiên cuối tuần. Chốt ngày 8/3, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.966 VND/USD, giảm nhẹ 06 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Sở giao dịch NHNN tiếp tục niêm yết giá mua USD ở mức 23.400 VND/USD, giá bán USD cuối tuần được niêm yết ở mức 25.145 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá đô-đồng liên ngân hàng trong tuần từ 4-8/3 tăng tiếp phiên đầu tuần, tuy nhiên sau đó đã giảm trở lại. Kết thúc phiên 8/3, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 24.640 VND/USD, giảm nhẹ 10 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá đô-đồng trên thị trường tự do tăng - giảm đan xen trong tuần qua. Chốt phiên 8/3, tỷ giá tự do giảm nhẹ 40 đồng ở chiều mua vào và 20 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25.320 VND/USD và 25.380 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng trong tuần từ 4-8/3, lãi suất VND liên ngân hàng tiếp tục giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống. Chốt ngày 8/3, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 0,80% (-0,67 điểm phần trăm); 1 tuần 1,06% (-0,57 điểm phần trăm); 2 tuần 1,32% (-0,54 điểm phần trăm); 1 tháng 2,06% (-0,38 điểm phần trăm).
Lãi suất USD liên ngân hàng tăng - giảm nhẹ ở tất cả các kỳ hạn. Phiên 8/3, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 5,20% (+0,01 điểm phần trăm); 1 tuần 5,29% (không thay đổi); 2 tuần 5,36% (+0,02 điểm phần trăm) và 1 tháng 5,40% (không thay đổi).
Trên thị trường mở tuần qua từ 4-8/3, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 15.000 tỷ đồng, lãi suất ở mức 4,0%. Không có khối lượng trúng thầu, không còn khối lượng lưu hành trên kênh này.
NHNN tiếp tục không chào thầu tín phiếu NHNN trong tuần qua. Không còn tín phiếu lưu hành trên thị trường.
Thị trường trái phiếu ngày 6/3, Kho bạc Nhà nước huy động thành công 8.000 tỷ đồng/11.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu, tương đương tỷ lệ trúng thầu là 70%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được toàn bộ 2.000 tỷ đồng gọi thầu; kỳ hạn 10 năm huy động được 3.500 tỷ đồng/5.250 tỷ đồng gọi thầu; kỳ hạn 15 năm huy động 2.500 tỷ đồng/3.750 tỷ đồng gọi thầu. Kỳ hạn 30 năm gọi thầu 500 tỷ đồng, nhưng đấu thầu thất bại. Lãi suất phát hành kỳ hạn 5 năm là 1,44% (+0,02 điểm phần trăm so với phiên đấu thầu trước), 10 năm 2,33% (+0,02 điểm phần trăm), 15 năm 2,53% (+0,02 điểm phần trăm).
Trong tuần này, ngày 13/3, Kho bạc Nhà nước chào thầu 12.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm chào thầu 3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm và 15 năm chào thầu 4.000 tỷ đồng/kỳ hạn, kỳ hạn 20 năm và 30 năm chào thầu 500 tỷ đồng/kỳ hạn.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp trong tuần qua đạt trung bình 13.599 tỷ đồng/phiên, tăng mạnh so với mức 9.949 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua tăng mạnh ở tất cả kỳ hạn. Chốt phiên 8/3, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1,29% (+0,07 điểm phần trăm so với phiên trước đó); 2 năm 1,31% (+0,07 điểm phần trăm); 3 năm 1,34% (+0,06 điểm phần trăm); 5 năm 1,55% (+0,09 điểm phần trăm); 7 năm 1,95% (+0,11 điểm phần trăm); 10 năm 2,51% (+0,17 điểm phần trăm); 15 năm 2,72% (+0,15 điểm phần trăm); 30 năm 3,05% (+0,04 điểm phần trăm).
Thị trường chứng khoán trong tuần từ 4-8/3, thị trường chứng khoán tăng tích cực đầu tuần, nhưng giảm mạnh phiên cuối tuần. Chốt phiên 8/3, VN-Index đứng ở mức 1.247,35 điểm, giảm 10,93 điểm (-0,87%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index lùi 0,11 điểm (-0,05%) xuống mức 236,32 điểm; UPCoM-Index tăng nhẹ 0,07 điểm (+0,08%) đạt 91,23 điểm.
Thanh khoản thị trường duy trì ở mức cao với giá trị giao dịch đạt mức 29.300 tỷ đồng/phiên, tăng tích cực từ mức 25.100 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh gần 1.600 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có phát biểu điều trần đáng chú ý, bên cạnh đó nước Mỹ cũng đón một số chỉ báo kinh tế quan trọng. Ngày 5/3, trong buổi điều trần trước Ủy ban Dịch vụ Tài chính Mỹ, Chủ tịch Fed Jerome Powell cho rằng lạm phát vẫn cao hơn mức mục tiêu 2,0% của Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC), nhưng đã giảm tốc mà không làm tăng đáng kể tỷ lệ thất nghiệp. FOMC cam kết mạnh mẽ đưa lạm phát trở lại mục tiêu 2%. FOMC bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ kể từ đầu năm 2022, đã đạt mức 5,25% - 5,50% kể từ cuộc họp tháng 7/2023, và có thể đã ở mức cao nhất trong chu kỳ thắt chặt này. Nếu nền kinh tế phát triển như mong đợi, có thể thời điểm thích hợp để giảm dần mức độ thắt chặt sẽ rơi vào năm 2024.
Tuy nhiên, triển vọng kinh tế là không chắc chắn. Việc giảm mức độ thắt chặt quá sớm hoặc quá nhiều có thể đảo ngược những thành quả trước đây, đòi hỏi chính sách tiền tệ phải quay lại thắt chặt hơn nữa để đạt mục tiêu.
Ngược lại, giảm mức độ thắt chặt quá muộn hoặc quá ít sẽ làm suy yếu kinh tế và thị trường lao động. FOMC sẽ đánh giá cẩn trọng dữ liệu để đưa ra những quyết định phù hợp. Liên quan đến kinh tế Mỹ, viện Quản lý Cung ứng (ISM) cho biết chỉ số PMI lĩnh vực dịch vụ tại nước này ở mức 52,6% trong tháng vừa qua, giảm nhẹ từ mức 53,4% của tháng Một, đồng thời thấp hơn mức 53,0% theo dự báo.
Tiếp theo, tại thị trường lao động, nước Mỹ tạo ra 275 nghìn việc làm phi nông nghiệp mới trong tháng Hai, cao hơn mức 229 nghìn của tháng 1 và đồng thời vượt khá mạnh so với mức 198 nghìn theo dự báo. Mặc dù vậy, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ tăng từ 3,7% lên 3,9% trong tháng vừa qua. Thu nhập bình quân của người lao động trong tháng 2 cũng chỉ tăng 0,1% so với tháng trước, giảm tốc so với 0,5% của tháng Một và gần khớp mức tăng 0,2% theo dự báo.
Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) không thay đổi lãi suất chính sách trong cuộc họp tháng Ba. Trong cuộc họp diễn ra ngày 7/3, các quan chức tại ECB nhận định lạm phát đã tiếp tục giảm thêm so với thời điểm cuộc họp tháng 1/2024. ECB dự báo lạm phát trung bình sẽ ở mức 2,3% trong năm 2024, 2,0% năm 2025 và 1,9% năm 2026, cùng thấp hơn so với dự báo trước. Lạm phát lõi được ECB dự báo tăng 2,6% trong năm nay, 2,1% năm 2025 và 2,0% năm 2026.
ECB cho rằng mặc dù lạm phát đang giảm nhưng áp lực giá cả trong khu vực vẫn ở mức cao, một phần do tăng trưởng tiền lương tăng mạnh. Việc lãi suất ở mức cao sẽ tiếp tục áp lực lên nhu cầu và khiến lạm phát tiếp tục giảm. Mặc dù vậy, kinh tế sẽ trầm lắng một thời gian và GDP Eurozone năm 2024 có thể chỉ đạt 0,6%, sau đó tăng tốc lên 1,5% năm 2025 và 1,6% năm 2026.
ECB cam kết mạnh mẽ đưa lạm phát trở lại mục tiêu 2,0% một cách kịp thời. ECB cho rằng lãi suất chính sách hiện tại nếu được duy trì đủ thời gian sẽ đóng góp đáng kể cho mục tiêu cơ quan này theo đuổi.
Theo đó, ECB quyết định không thay đổi lãi suất chính sách trong cuộc họp này. Cụ thể, LS tái cấp vốn, lãi suất cho vay cận biên và lãi suất tiền gửi tại ECB lần lượt được duy trì ở mức 4,50%; 4,75% và 4,0%. ECB sẽ tiếp tục quan sát các dữ liệu lạm phát và kinh tế để đưa ra các quyết định tiếp theo về lãi suất chính sách.
Liên quan đến thông tin kinh tế Eurozone đón nhận trong tuần qua, doanh số bán lẻ tháng Một tại khu vực này tăng nhẹ 0,1% so với tháng trước sau khi giảm 0,6% ở tháng trước đó, khớp với con số được dự báo. Cuối cùng, chỉ số giá sản xuất PPI tại Eurozone giảm 0,9% so với tháng trước trong tháng Một, nối tiếp đà giảm 0,9% ở tháng trước đó và sâu hơn nhiều so với mức giảm 0,1% theo dự báo.