Doanh nghiệp tự cường cho đất nước tự chủ
Ngân hàng kịp thời hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh | |
Gia cố thị trường trái phiếu doanh nghiệp |
“Đảng luôn nhận thức và đánh giá đúng vai trò của đội ngũ doanh nhân trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nhất là trong bối cảnh hội nhập sâu rộng như hiện nay”, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Hoàng Quang Phòng bình luận về chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới, được đề cập tại Nghị quyết 09-NQ/TW với quan điểm là “Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất, uy tín cao, góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế”.
Tư duy mới về phát triển doanh nghiệp phải thực sự vì chất lượng cuộc sống của con người |
Xác lập vị thế trên bản đồ kinh tế thế giới
Với gần 907 nghìn doanh nghiệp, khoảng 15,3 nghìn hợp tác xã và 5,6 triệu hộ kinh doanh, khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể, tập thể trong nước (gắn liền với đội ngũ doanh nhân Việt Nam) đóng góp khoảng 68% GDP, trên 70% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút 10,2 triệu lao động, tạo ra gần 30% giá trị hàng hóa xuất khẩu.
Hiện Việt Nam có 7 doanh nhân lọt vào top "tỷ phú USD" toàn cầu năm 2022, 124 doanh nghiệp (với 283 sản phẩm) được công nhận đạt thương hiệu quốc gia. Nhiều doanh nghiệp có tiềm lực mạnh, thương hiệu gây được tiếng vang trong thị trường khu vực, quốc tế như: Vingroup, Vinamilk, FPT, Thaco, TH Group, Masan… Những doanh nghiệp này đang ngày một lớn dần cả về quy mô, năng lực cạnh tranh, sản phẩm dịch vụ, quản trị điều hành, công nghệ... Nhiều doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
“Có thể coi việc thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển, có vị thế trên bản đồ kinh tế thế giới là sứ mệnh, trọng trách và vai trò quan trọng của đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp”, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Ủy viên Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (VNCPEC) nói.
Tuy nhiên, sự phát triển của đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp trong thời gian qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chưa đạt như kỳ vọng. Phát triển doanh nghiệp về số lượng chưa đạt mục tiêu đề ra và con số 1,5 triệu doanh nghiệp đến năm 2025 vẫn là thách thức lớn. Bên cạnh đó, chất lượng doanh nghiệp, doanh nhân và năng lực doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi giá trị, mạng lưới sản xuất toàn cầu còn hạn chế, vẫn chưa tận dụng được hết các cơ hội mang lại từ các hiệp định FTA mà Việt Nam đang tham gia.
Báo cáo VPE500 2021 cho thấy, chỉ có 2,6% là doanh nghiệp lớn tại Việt Nam có thể đáp ứng tiêu chuẩn là nhà cung cấp (vendor) cấp 1 của các doanh nghiệp FDI, 3,4% là doanh nghiệp quy mô vừa có thể đáp ứng tiêu chuẩn là vendor cấp 2 hoặc 3 của chuỗi cung ứng, còn lại 94% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ không đủ tiêu chuẩn tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu...
Mặt khác, doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi liên kết toàn cầu chủ yếu theo các liên kết ngược, chịu sự chi phối đáng kể từ các nhà cung cấp đầu vào quốc tế hơn là trở thành mắt xích cung ứng đầu vào cho các công đoạn sau của các chuỗi sản xuất, khi 45% nguyên liệu đầu vào để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được nhập từ bên ngoài. Liên kết xuôi của Việt Nam chiếm 11,1% nhưng cũng chỉ trong tham gia khâu cung ứng một số nguyên liệu thô (dầu thô, than đá, nông sản thô…) cho các nước thực hiện khâu tinh chế.
“Một bộ phận doanh nhân Việt Nam thiếu tầm nhìn chiến lược dài hạn, thiếu tính liên kết, hợp tác bền vững với các đối tác để tạo sức mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, chưa có nhiều doanh nhân đủ bản lĩnh và kinh nghiệm để tự tin đàm phán, ký kết hợp đồng hợp tác với các đối tác nước ngoài”, ông Lực chỉ ra. Việc Nhà nước chưa có quy hoạch tổng thể về hệ sinh thái công nghiệp phụ trợ cho từng ngành sản xuất, từng lĩnh vực xuất khẩu, cũng khiến các doanh nghiệp còn hoạt động rời rạc, thiếu liên kết, thiếu sức mạnh tổng hợp...
Cần một tư duy và tầm nhìn đột phá
Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ tư của ASEAN và thứ 40 của thế giới, là một trong những nền kinh tế được đánh giá là năng động và có độ mở cao nhất thế giới. Cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân đang đứng trước nhiều cơ hội. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực và uy tín quốc tế như ngày nay…”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói.
Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng đang đối mặt với không ít thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đại dịch Covid-19, sự chuyển dịch chuỗi cung ứng... Sự đan xen thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức trong bối cảnh mới đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu mới, nặng nề, phức tạp hơn, kể cả việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam về số lượng và chất lượng.
"Những thực tế này đặt ra vấn đề cần xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam không chỉ có tài mà cần có cả đạo đức và văn hóa kinh doanh, như vậy mới góp phần đưa Việt Nam đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao, như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đặt ra”, ông Hoàng Quang Phòng nhìn nhận.
“Bản thân đội ngũ doanh nhân phải nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của mình trong công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước, bảo vệ sự độc lập, tự chủ của nền kinh tế; nhận thức đúng, sâu sắc về quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nhân, sự gắn bó hữu cơ giữa mục tiêu, khát vọng làm giàu chân chính với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và doanh nhân”, TS. Cấn Văn Lực chia sẻ.
Cùng quan điểm này, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh chỉ ra, trong một thế giới đầy biến động và đã thay đổi hết sức sâu sắc, việc nhận thức được sứ mệnh và nắm bắt cách thức kinh doanh mới là tiền đề quan trọng nhất, để hiện thực hóa cái “nghiệp” của doanh nhân. Trong đó, tư duy mới về phát triển doanh nghiệp không đơn thuần chỉ là gia tăng thu nhập, vốn mà phải thực sự vì chất lượng cuộc sống của con người.
“Thị phần và lợi nhuận vẫn là những chiều cạnh hết sức quan trọng, song kinh doanh giờ đây không thể không gắn với “màu xanh”, trách nhiệm xã hội và sự lựa chọn thông minh, hợp lý và nhân văn của người tiêu dùng”, TS. Võ Trí Thành lưu ý.
Để làm được điều này, TS. Võ Trí Thành đề xuất 6 việc “học”. Đầu tiên là học việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh từ thị trường mở rộng dựa trên lợi thế so sánh và cam kết hội nhập đã ký kết, đã và sẽ thực hiện. Bởi, cơ hội cũng có thể xuất hiện nhờ xác định đúng năng lực trong mảng sản xuất, chuỗi giá trị và cả trong nắm bắt sự xuất hiện những lĩnh vực, ngành nghề mới.
Thứ hai là học kết nối cùng chấp nhận cạnh tranh; trong đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh thì doanh nghiệp cần biết chuyển dần từ cách cạnh tranh bằng giá sang chú trọng cạnh tranh phi giá. Giải pháp là liên kết với công ty đầu đàn, tham gia chuỗi giá trị có thể tăng lợi thế nhờ quy mô, phát huy tốt hơn lợi thế so sánh, giảm phí tổn kết nối dịch vụ.
Thứ ba là học cách tạo khả năng tiếp cận vốn trên phạm vi toàn cầu, khi dòng vốn này thường chịu sự chi phối của các ngân hàng thương mại, quỹ đầu tư và các tổ chức tài chính khác. Trong đó, đặc biệt là cần tận dụng vốn “xanh”, tín dụng “xanh”.
Thứ tư là học quản trị sự bất định thông qua việc hiểu và sử dụng hiệu quả các công cụ phòng chống rủi ro để “biến cái bất định thành cái xác định”, như sử dụng các công cụ phái sinh, bảo hiểm...
Thứ năm là học đồng hành với Chính phủ. Bởi vì, chỉ hiểu thông tin cam kết hội nhập là chưa đủ mà cần nắm bắt cả những chính sách, cải cách hiện hành và sắp tới. Và điều đó đòi hỏi phải có những trao đổi, đối thoại cởi mở, thẳng thắn giữa doanh nghiệp, hiệp hội với Chính phủ.
Sau cùng là học “đối thoại pháp lý”. Điều đó chỉ có thể đạt được nhờ không ngừng nâng cao hiểu biết và khả năng vận dụng cơ sở pháp lý cũng như cơ chế, quy trình giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, “chúng ta cần sự nỗ lực không chỉ của lực lượng doanh nhân chân chính mà còn cần sự ủng hộ, đồng hành và kiến tạo của Chính phủ, bộ, ngành, địa phương”, TS. Cấn Văn Lực lưu ý. Trong đó, cần xây dựng, hoàn thiện môi trường, thể chế đầu tư, phát triển đất nước nhanh, bền vững, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là hệ thống chính sách, pháp luật tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng bảo vệ, khuyến khích, khen thưởng doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn chân chính, đổi mới sáng tạo.
Chính phủ, bộ, ngành cũng cân bằng chính sách giữa các loại hình doanh nghiệp; sớm có giải pháp quyết liệt, chấm dứt tình trạng ưu tiên hay đặc quyền đặc lợi cho một loại hình doanh nghiệp; lành mạnh hóa môi trường kinh doanh, tạo điều kiện công bằng để các doanh nhân phát huy tối đa năng lực, kinh nghiệm của mình để cạnh tranh công bằng, công khai, văn minh, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, cạnh tranh trên thương trường quốc tế, góp phần phát triển kinh tế đất nước về mọi mặt.
Ông cũng đề xuất xây dựng bộ tiêu chí về đạo đức kinh doanh, về doanh nhân tiêu biểu, để từ đó có thể lan tỏa và nhân rộng những giá trị quý báu trong đội ngũ doanh nhân và cộng đồng doanh nghiệp, giúp phát triển đội ngũ doanh nhân và cộng đồng doanh nghiệp ngày càng vững mạnh cả về số lượng và chất lượng... tiếp tục trở thành lực lượng tiên phong trong công cuộc đổi mới của đất nước, để “doanh nghiệp tự cường cho đất nước tự chủ”.