Doanh nghiệp xuất khẩu “oằn mình” vì chi phí
Các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ: Mở rộng thị trường sang Bắc Mỹ | |
Cần tăng cường năng lực cho doanh nghiệp xuất khẩu hồ tiêu vào EU | |
Tìm cách gỡ khó cho doanh nghiệp xuất khẩu |
Mới đây, Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas) đã đề nghị điều chỉnh mức chỉ tiêu doanh số xuất khẩu điều nhân năm 2022 xuống còn 3,2 tỷ USD, giảm 600 triệu USD so với kế hoạch đề ra hồi đầu năm. Theo Vinacas, nguyên nhân là do sau dịch Covid-19, tình hình xuất khẩu năm 2022 tiếp tục gặp khó khăn, giá cước tàu biển vẫn còn ở mức cao; các nhà nhập khẩu và chế biến đang có xu hướng chậm mua hàng nguyên liệu; giá điều nhân xuất khẩu không tăng đồng bộ với đà tăng của điều thô, các nhà máy không thể cân đối giá thành chế biến và giá xuất khẩu; Trung Quốc vẫn đang áp dụng chính sách “Zero Covid-19”... Những yếu tố trên tiếp tục ảnh hưởng bất lợi nhất định đến ngoại thương và xuất khẩu nhân điều.
Khó khăn không chỉ bủa vây ngành điều mà còn đang hiện diện ở hầu hết các ngành nghề khi mà áp lực lạm phát đang tăng cao trên toàn cầu cũng như tình trạng thiếu nguyên phụ liệu để sản xuất do chuỗi cung ứng vẫn bị đứt gãy.
Ảnh minh họa |
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam (VEIA), một trong hai mảng sản xuất chính của ngành điện tử là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đang nhập khẩu 29,58% linh phụ kiện từ Hàn Quốc và 28,8% từ Trung Quốc. Tỷ lệ này đối với mảng điện thoại các loại và linh kiện cao hơn nhiều, lần lượt là 52,14% và 40,49%. Do đó, khi nguồn cung nguyên liệu từ Trung Quốc bị gián đoạn, cả những doanh nghiệp lớn cũng đều ảnh hưởng.
Còn đối với các doanh nghiệp dệt may, theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), thị trường Trung Quốc đóng vai trò cung cấp nguồn nguyên phụ liệu đầu vào rất lớn cho ngành dệt may trong nước, bao gồm khoảng 60% vải, hơn 55% xơ sợi và khoảng 45% phụ liệu. Do đó, khi nước này kiên trì áp dụng chiến lược “Zero Covid-19” dẫn đến thiếu hụt nguồn cung trong ngắn hạn đã gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất của ngành.
Phân tích cụ thể hơn khó khăn đối với các doanh nghiệp dệt may, Ths. Nguyễn Hương Giang, Khoa Tài chính Ngân hàng, Trường Đại học Thương mại cho biết, đại dịch đã gây ra thiệt hại đáng kể và khó khăn cho ngành công nghiệp dệt may Việt Nam, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, người lao động theo nhiều cách khác nhau. Các doanh nghiệp phải đối mặt với tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng, thiếu nhân lực sản xuất, nhu cầu tiêu thụ giảm mạnh, đối tác hủy đơn hàng, sụt giảm doanh thu... Không chỉ vậy, doanh nghiệp dệt may còn phải đối mặt với hàng loạt thách thức như chi phí vận tải tăng cao gấp 3 lần so với mức trung bình 5 năm gần đây, khiến dệt may Việt Nam bị giảm sức cạnh tranh so với các đối thủ quốc tế.
Quả vậy tại kỳ điều hành mới nhất vào ngày 21/6, giá xăng trong nước đã tăng lần thứ 7 liên tiếp và lập đỉnh mới. Cụ thể, giá xăng E5 RON 92 tăng thêm 190 đồng/lít, lên mức 31.300 đồng/lít; giá xăng RON 95 tăng 500 đồng/lít, lên mức 32.870 đồng/lít. Chi phí vận chuyển vốn chiếm một phần không nhỏ trong chi phí hoạt động, nhất là doanh nghiệp xuất nhập khẩu khiến các doanh nghiệp đã khó khăn nay càng khó khăn hơn.
Đại diện một doanh nghiệp dệt may cho biết, dù đơn hàng đã có đến hết cuối năm tuy nhiên do ảnh hưởng của dịch bệnh vẫn đang kéo dài cùng với cuộc xung đột Nga - Ukraine đang đẩy giá cả năng lượng, lương thực và chi phí khác giá tăng, dẫn đến lạm phát tại nhiều nước tăng cao, doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều thách thức cả trong bài toán cân đối chi phí lẫn tìm kiếm nguồn nguyên liệu. Kế hoạch kinh doanh vì thế mà phải linh hoạt theo diễn biến thị trường, sẵn sàng điều chỉnh để chống chọi với khó khăn.
Cùng với đó, các doanh nghiệp cũng tích cực tìm kiếm các nguồn nguyên phụ liệu trong nước để chủ động hơn về thời gian giao nhận, tiết kiệm chi phí vận chuyển, tích cực đàm phán với khách hàng cùng chia sẻ khó khăn cho gánh nặng chi phí gây ra.
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh tới việc cần tận dụng triệt để các ưu đãi từ Hiệp định thương mại tự do (FTA) trong bối cảnh hiện nay. Thực tế, nếu tận dụng tốt, doanh nghiệp sẽ có cơ hội tìm kiếm nhiều thị trường mới, tiềm năng và tránh phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống. Tuy nhiên, theo khảo sát của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) về kết quả thực hiện một số các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA, chỉ có 29% doanh nghiệp có giao dịch xuất nhập khẩu với các nước CPTPP từng có lô hàng được hưởng ưu đãi thuế quan theo hiệp định. Ngoài ra, kết quả tổng hợp báo cáo về thực thi của các địa phương cho thấy, đối với Hiệp định EVFTA, hiện có khoảng 38/63 tỉnh, thành có hoạt động xuất nhập khẩu với các nước EU và khoảng trên dưới 50% tỉnh, thành có hoạt động xuất nhập khẩu với các nước CPTPP.
Do vậy, dư địa tận dụng ưu đãi còn rất nhiều đòi hỏi các doanh nghiệp cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh mới, cân đối bài toán chi phí trong bối cảnh đầy biến động.