Chỉ số kinh tế:
Ngày 19/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.148 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.941/26.355 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Lợi nhuận ngân hàng: Cần phải được nhìn nhận khách quan và toàn diện

Nhóm phóng viên thực hiện
Nhóm phóng viên thực hiện  - 
Lợi nhuận của các ngân hàng trong năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021 cần được hiểu, nhìn nhận khách quan, toàn diện. Bởi đây là kết quả của cả một quá trình với nỗ lực rất lớn của toàn Ngành, của bản thân từng tổ chức tín dụng (TCTD), đi cùng đó là những chủ trương chính sách kịp thời, phù hợp của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng trao đổi với báo chí nhằm làm rõ những dư luận xung quanh cái gọi là “lợi nhuận khủng” của ngân hàng.
aa
loi nhuan ngan hang can phai duoc nhin nhan khach quan va toan dien
Ông Nguyễn Quốc Hùng

Thưa ông, từ cuối năm 2020 tới nay, nhắc tới ngành Ngân hàng, thông tin trên truyền thông thường hay đề cập tới những khoản “lợi nhuận khủng”. Vậy cần đánh giá thông tin này ra sao?

Nhìn nhận một cách tổng thể, thời gian qua, đặc biệt trong năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021, số liệu thống kê ghi nhận hoạt động của ngành Ngân hàng có bước khởi sắc, phần lớn TCTD đạt kết quả kinh doanh theo Nghị quyết đại hội đồng cổ đông đề ra.

Lợi nhuận ngân hàng được các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp so với mặt bằng xã hội là con số khá lớn, nhưng nếu tính bình quân trên mặt bằng tổng tài sản, vốn điều lệ, các chỉ số tài chính như ROA, ROE… thì lợi nhuận của các TCTD không phải cao so với một số ngành, lĩnh vực khác.

Có thể khẳng định, lợi nhuận của các TCTD là kết quả của cả một quá trình và được tổng hợp từ nhiều yếu tố như: Cơ chế chính sách của Nhà nước được ban hành kịp thời (Nghị quyết 42), chủ trương, chính sách chỉ đạo của NHNN trúng và phù hợp với thực tế hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng; nỗ lực quyết liệt tái cơ cấu của TCTD; việc ngân hàng chủ động đầu tư sớm vào ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại với chi phí rất lớn trước đây nay đã thu được “trái ngọt”, vừa giúp khách hàng tiếp cận dễ dàng với dịch vụ, sản phẩm ngân hàng với nhiều tiện ích, vừa giúp ngân hàng tiết giảm chi phí hoạt động; nguồn thu từ thu nhập bất thường…

Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt. Do đó, cần phải có những ứng xử và cách nhìn đặc biệt chứ không nên chỉ nhìn vào lợi nhuận của ngân hàng. Khác với các doanh nghiệp khác, lợi nhuận ngân hàng tốt sẽ kéo theo hệ quả là hệ số tín nhiệm của các ngân hàng tăng lên, qua đó góp phần nâng hệ số tín nhiệm quốc gia. Do vậy, trong bối cảnh đại dịch hiện nay, lợi nhuận ngân hàng cao phải được nhìn nhận là điều may mắn. Từ đó, ngân hàng mới có thêm nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi.

Ngân hàng được xem là huyết mạch của nền kinh tế. Vậy tại sao khi kinh tế chịu tác động bởi đại dịch, tăng trưởng thấp, doanh nghiệp và người dân khó khăn thì ngân hàng vẫn đạt lợi nhuận lớn, thưa ông?

Câu hỏi này chính là điều mà lâu nay tôi rất muốn chia sẻ để làm rõ. Lợi nhuận của ngân hàng cần phải được hiểu đúng, nhìn nhận khách quan, toàn diện ở các góc độ.

Thứ nhất, bản thân các TCTD đã tự củng cố, nâng cao được năng lực quản trị, năng lực tài chính của mình. Đơn cử, năng lực tài chính được nâng cao thông qua biện pháp tăng vốn điều lệ. Gần như tất cả các TCTD đã tăng được vốn điều lệ để đảm bảo hệ số an toàn vốn (CAR) theo quy chuẩn quản trị rủi ro quốc tế Basel II. Nhiều ngân hàng trong nhiều năm liền không chi trả cổ tức cho cổ đông để dành nguồn lực vốn cho tương lai. Đây chính là một trong những cơ sở tạo điều kiện cho TCTD đảm bảo an toàn hệ thống của chính mình, qua đó giúp tăng năng lực quản trị một cách bền vững.

Thứ hai, các TCTD đã đẩy mạnh tiết giảm chi phí hoạt động. Việc sớm đầu tư thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại và tích cực cải cách thủ tục hành chính đã giúp các ngân hàng tiết giảm được rất nhiều chi phí hoạt động. Nhất là trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, những sự đầu tư này đã phát huy hiệu quả rất tốt.

Đặc biệt phải kể tới sự hình thành ngân hàng số - một trong những bước chuyển mạnh mẽ của ngành Ngân hàng. Ngân hàng số đem tới sự giản tiện cho người sử dụng. Chúng ta có thể thấy hiện nay, mọi người dân đều có thể dễ dàng sử dụng điện thoại để chuyển tiền, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt ở mọi nơi, mọi lúc mà không cần phải đến ngân hàng… Cũng bởi có ngân hàng số và thanh toán điện tử mà lượng tiền mặt trong lưu thông chủ yếu luân chuyển giữa các tài khoản tại ngân hàng, giúp các TCTD gia tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn với lãi suất thấp. Nhờ đó, các TCTD có điều kiện tiết giảm chi phí huy động vốn đầu vào.

Thứ ba, khác với trước kia, nguồn thu của ngân hàng chủ yếu là từ thu lãi vay, thì nay tỷ lệ thu từ dịch vụ tại các TCTD đều gia tăng, có ngân hàng thu dịch vụ đóng góp tới 40% vào lợi nhuận và điều này phù hợp với xu thế quốc tế.

Thứ tư, quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu tại các TCTD mang lại hiệu quả cao. Tới nay, 21 TCTD đã mua lại các khoản nợ đã bán cho Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), hoạt động trích lập dự phòng rủi ro cũng được tăng cường.

Bên cạnh đó, sự ra đời của Nghị quyết 42 và hiệu quả trong điều hành kinh tế của Chính phủ đã giúp kinh tế tăng trưởng ổn định, những khoản nợ liên quan đến bất động sản, hoặc những bất động sản tồn đọng trước đây, đều được xử lý nhanh và hiệu quả hơn. Đây là một trong những điểm quan trọng giúp phá tan “cục máu đông” nợ xấu, tạo điều kiện luân chuyển vốn trong nền kinh tế, giúp tăng tỷ lệ thu nhập bất thường ở các TCTD trong thời gian qua.

Thứ năm, bản thân các TCTD đã tích cực mở rộng hoạt động dịch vụ như ngân hàng đại lý, bảo hiểm và nhiều hoạt động khác, qua đó giúp tăng thu nhập.

Thứ sáu, sau hơn một năm tổ chức thực hiện Thông tư số 01/2020/TT-NHNN của NHNN quy định về việc các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ; miễn, giảm lãi, phí; giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19 đã giúp các TCTD tạm thời chưa phải trích lập dự phòng rủi ro nên cũng giảm được chi phí. Nếu trừ đi khoản này, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm mạnh.

Thứ bảy, lợi nhuận ngân hàng đang được tạm tính trên cả các khoản dự thu của khách hàng theo quy định hiện hành của pháp luật. Nếu khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng phải thoái thu, lúc đó sẽ không được ghi nhận vào lợi nhuận nữa.

Tóm lại, tôi muốn khẳng định lợi nhuận ngân hàng đến từ rất nhiều nguyên nhân và là kết quả kết tinh từ một quá trình nỗ lực lâu dài, trong đó có cả việc chịu sự dồn nén từ rất nhiều năm trước khi phải tích góp, thắt lưng buộc bụng để xử lý dự phòng rủi ro, đảm bảo đưa tỷ lệ nợ xấu xuống trong phạm vi cho phép và dành nhiều nguồn lực cho đầu tư công nghệ.

Có ý kiến cho rằng, ngân hàng thu lợi nhuận cao phần nhiều do lãi suất đầu vào giảm nhưng lãi suất đầu ra lại không giảm tương ứng. Liệu chênh lệch lãi suất đầu vào với lãi suất đầu ra của TCTD hiện có quá lớn không?

Tôi nhấn mạnh lại một lần nữa, cần phải nhìn lợi nhuận của ngân hàng một cách toàn diện và đầy đủ trên mọi khía cạnh.

Còn nói lợi nhuận ngân hàng tăng do “ăn” chênh lệch lãi suất cao là hoàn toàn không chính xác. Thực tế cho thấy, chênh lệch lãi suất đầu vào với đầu ra có doãng ra trong năm 2021 nhưng độ doãng đó hợp lý và phù hợp với thực tế (chênh lệch này chưa tính toán đến chi phí hoạt động và chi phí rủi ro), chứ không phải do ngân hàng lợi dụng việc giảm lãi suất đầu vào mà tăng hoặc giữ nguyên lãi suất cho vay.

Tỷ lệ vốn không kỳ hạn tăng thêm, chi phí giảm xuống, vốn điều lệ được bổ sung đảm bảo hệ số CAR là điều kiện cho ngân hàng giảm lãi suất. Nhưng việc giảm lãi cũng phải có bước đi, lộ trình phù hợp. Hiện tỷ lệ nợ trung và dài hạn tại các ngân hàng lên tới 40%. Do trước đây các khoản vay này đều có lãi suất cao, nên tới khi giảm lãi suất, bắt buộc phải thực hiện giảm từng bước (giảm dần) để đảm bảo tỷ lệ đủ bù đắp chi phí của TCTD.

Thực tế cho thấy, ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động minh bạch nhất về chi phí xác định lãi suất đầu vào. Nếu doanh nghiệp vay lãi suất cao trong giai đoạn hiện nay cần phải xem lại hiệu quả của dự án. Ngân hàng nào cho vay thì mức rủi ro rất lớn và phải chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình, do vậy không ngân hàng nào dám cho vay với lãi suất cao trong bối cảnh dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp như hiện nay. Tôi cho rằng mong muốn của ngân hàng là thu đủ gốc và lãi đủ bù đắp chi phí và sẵn sàng giảm lãi suất cho vay ở mức hợp lý.

Như vậy, lợi nhuận ngân hàng thu được trong thời gian qua, theo ông, nên được hiểu thế nào cho đúng?

Lợi nhuận đó là hoàn toàn xứng đáng với nỗ lực không mệt mỏi của các TCTD trong chặng đường dài từ năm 2008 tới nay.

Việc lợi nhuận ngân hàng cao cần phải được nhìn nhận như một dấu hiệu đáng mừng. Bởi ngân hàng là “huyết mạch” của nền kinh tế. “Huyết mạch” có sức khỏe tốt - về mặt tài chính là cơ sở để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển. Đây là điều mà các TCTD đã và đang thực hiện trong suốt thời gian qua.

Đơn cử như việc các TCTD đồng thuận giảm lãi suất trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp ước tính lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng, nếu sức khỏe của TCTD không tốt sẽ không đủ khả năng tài chính để giảm lãi. Việc giảm lãi này có lợi trực tiếp cho các doanh nghiệp, từ đó tác động lớn tới toàn bộ nền kinh tế, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển.

Lợi nhuận đang được các TCTD cân nhắc sử dụng một cách chặt chẽ và kỹ lưỡng. Dù con số lợi nhuận cao nhưng tỷ lệ chia cổ tức của các ngân hàng chỉ trong khoảng 5-9%, thậm chí có ngân hàng nhiều năm nay chưa chia cổ tức. Chưa kể, ngân hàng là ngành sẵn sàng chia sẻ lợi nhuận để tích cực đóng góp vào các hoạt động an sinh xã hội, thể hiện tinh thần trách nhiệm với cộng đồng rất cao. Ngành Ngân hàng là một trong những ngành đi đầu và có đóng góp lớn vào các quỹ và hoạt động phòng chống đại dịch COVID-19 do Đảng và Chính phủ phát động thời gian qua, với khoảng trên 1.400 tỷ đồng.

Bằng những hành đông cụ thể, ngành Ngân hàng đang thực sự hỗ trợ, tạo điều kiện chia sẻ với doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Đây là những sự chia sẻ thực chất bằng hành động cụ thể chứ không phải chỉ trên lý thuyết.

Cũng cần phải nói thêm, các ngân hàng cũng rất mong muốn được sử dụng phần lợi nhuận có được để tăng vốn điều lệ nhằm ứng phó với những nguy cơ rủi ro trong tương lai - điều rất cần thiết trong bối cảnh dịch bệnh diễn ra hết sức phức tạp. Bản thân các ngân hàng đã rút ra được rất nhiều bài học trong quá trình tái cơ cấu vừa qua, do đó đặc biệt quan tâm đến bảo đảm an toàn hệ thống, an toàn vốn.

Như ông nói, COVID-19 tác động mạnh đến các doanh nghiệp, khách hàng của các ngân hàng, vậy chúng tác động ra sao đối với hoạt động của ngành Ngân hàng?

Ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 tới ngành Ngân hàng là rất lớn, đặc biệt là nguy cơ tiềm ẩn trong tương lai. Theo tôi biết, số nợ cơ cấu theo Thông tư 01/2020 và Thông tư 03/2021 hiện nay là 347 nghìn tỷ đồng. Nhưng con số này khả năng sẽ còn lớn hơn.

Trước diễn biến phức tạp của đại dịch, thời gian tới, sức khỏe của doanh nghiệp và nền kinh tế là hết sức khó khăn. Không chỉ riêng lĩnh vực giao thông vận tải, du lịch bị ảnh hưởng mà rất nhiều lĩnh vực khác cũng chịu tác động. Kể cả những đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả trước đây, dù có đơn hàng, có hợp đồng vẫn phải ngừng sản xuất kinh doanh, đóng cửa do công nhân bị nhiễm bệnh. Nền kinh tế và doanh nghiệp bị ảnh hưởng chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến ngân hàng.

Doanh nghiệp sẽ không có tiền để trả nợ vay ngân hàng, trong khi ngân hàng phải tiếp tục trích lập dự phòng rủi ro theo Thông tư 03/2021 trong giai đoạn 3 năm. Như vậy, chắc chắn nợ xấu của ngân hàng sẽ phát sinh và gia tăng trong thời gian tới. Cần phải nhìn nhận, nợ xấu giai đoạn này có nhiều điểm khác so với năm 2008, nguyên nhân gây ra không phải do yếu tố chủ quan mà là khách quan bởi dịch bệnh toàn cầu ảnh hưởng tới không chỉ Việt Nam mà cả ở toàn thế giới. Do đó, hậu quả của đại dịch chắc chắn sẽ rất nặng nề.

Khi doanh nghiệp, khách hàng vay vốn không trả được nợ, ngân hàng sẽ ra sao? Chưa kể Nghị quyết 42 tới tháng 8/2022 sẽ hết hiệu lực, lúc đó việc xử lý nợ xấu của các TCTD sẽ như thế nào? Nợ xấu của ngân hàng sẽ bị đánh giá, nhìn nhận ra sao? Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã gồng mình lên để tái cơ cấu, đầu tư công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật, cắt giảm chi phí để hỗ trợ nền kinh tế và doanh nghiệp nhưng tới đây, khi nợ xấu phát sinh và phải đảm bảo đưa tỷ lệ nợ xấu về theo đúng quy định thì ai sẽ hỗ trợ ngân hàng?... Đây là những vấn đề đang đặt ra đối với hoạt động ngân hàng.

Ngành Ngân hàng cũng đang rất cần sự cảm thông và chia sẻ khó khăn từ cơ quan quản lý và các đối tác. Tuy nhiên, trong bối cảnh các ngân hàng có trách nhiệm cơ cấu nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, miễn giảm lãi, phí… cho các khách hàng, thì ở góc độ khác, các doanh nghiệp viễn thông hay tổ chức thẻ quốc tế đều chưa có sự hỗ trợ cho ngân hàng trong việc giảm phí, dù phía ngân hàng đã nhiều lần có văn bản đề nghị.

Nếu không có dịch COVID-19, những kết quả khởi sắc mà ngành Ngân hàng đạt được là rất đáng trân trọng vì đã tái cơ cấu và từng bước xử lý nợ xấu thành công. Với việc đại dịch bùng phát như hiện nay, ngành Ngân hàng lại tiếp tục sẵn sàng tâm thế bước vào cuộc tái cơ cấu mới với mức độ phức tạp hơn rất nhiều.

Tôi mong những chia sẻ, phân tích cụ thể nêu trên sẽ giúp các cơ quan quản lý và xã hội hiểu rõ hơn, có cái nhìn đúng đắn, chính xác và khách quan về cái vẫn được gọi là “lợi nhuận khủng” ngành Ngân hàng.

Cảm ơn ông về cuộc trao đổi!

Nhóm phóng viên thực hiện

Tin liên quan

Tin khác

Sau một năm tăng mạnh, thị trường chứng khoán cần điều gì để đi tiếp?

Sau một năm tăng mạnh, thị trường chứng khoán cần điều gì để đi tiếp?

Sau một năm 2025 tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường chứng khoán Việt Nam, năm 2026 được dự báo là giai đoạn điều chỉnh nhịp độ để hướng tới sự bền vững. Trên nền tảng đó, PGS.TS. Võ Đình Trí - Giảng viên Trường IPAG Business School Paris (Pháp) cho rằng, chiến lược đầu tư hiệu quả không nằm ở việc chạy theo các nhịp sóng ngắn hạn, mà ở tư duy dài hạn, kỷ luật danh mục và khả năng thích ứng với sự luân chuyển giữa các nhóm ngành.
Thị trường chứng khoán năm 2026: Chu kỳ tái định giá và sàng lọc cơ hội đầu tư?

Thị trường chứng khoán năm 2026: Chu kỳ tái định giá và sàng lọc cơ hội đầu tư?

Sau một năm 2025 tăng trưởng mạnh nhưng đầy biến động, thị trường chứng khoán Việt Nam đang bước vào giai đoạn bản lề, nơi các yếu tố vĩ mô, định giá và cấu trúc dòng tiền cùng lúc định hình một chu kỳ mới. Trên nền tảng đó, theo phân tích của ông Đinh Minh Trí - Giám đốc Phân tích Khối Khách hàng cá nhân, Công ty Cổ phần Chứng khoán Mirae Asset (MAS), năm 2026 không chỉ là năm của tăng trưởng, mà là giai đoạn tái định giá rõ nét, đòi hỏi chiến lược đầu tư chọn lọc, dựa trên chất lượng doanh nghiệp và động lực tăng trưởng thực chất.
Bình dân học vụ số: Giải pháp bảo đảm an toàn giao dịch ngân hàng

Bình dân học vụ số: Giải pháp bảo đảm an toàn giao dịch ngân hàng

Những nội dung là nhiệm vụ của phong trào bình dân học vụ số trong lĩnh vực ngân hàng được làm tốt sẽ là những giải pháp toàn diện, thiết thực và hiệu quả để bảo đảm an toàn trong giao dịch ngân hàng số và thúc đẩy phát triển mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.
Dự thảo thay thế Thông tư 32/2024/TT-NHNN: Cơ hội “vẽ lại bản đồ” mạng lưới ngân hàng

Dự thảo thay thế Thông tư 32/2024/TT-NHNN: Cơ hội “vẽ lại bản đồ” mạng lưới ngân hàng

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến đối với dự thảo Thông tư quy định về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại, dự kiến thay thế Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ban hành ngày 30/06/2024. Trong bối cảnh khung khổ pháp lý của ngành Ngân hàng đang được rà soát, sửa đổi mạnh mẽ để đồng bộ với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, việc xây dựng văn bản thay thế Thông tư 32 được đánh giá là bước đi cần thiết nhằm điều chỉnh những quy định không còn phù hợp và giải quyết những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn tổ chức mạng lưới hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Từ "bước ngoặt" nâng hạng đến khát vọng tăng trưởng kép: Cần chiến lược dòng vốn cho kỷ nguyên mới

Từ "bước ngoặt" nâng hạng đến khát vọng tăng trưởng kép: Cần chiến lược dòng vốn cho kỷ nguyên mới

Thị trường vốn Việt Nam đang đứng trước một "thời điểm vàng" mang tính lịch sử. Sự kiện FTSE Russell nâng hạng thị trường lên nhóm mới nổi không chỉ là một danh xưng, mà là tín hiệu kích hoạt cho một chu kỳ chuyển mình toàn diện về chất lượng. Trong bối cảnh đó, mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số cho năm 2026 không còn là viễn cảnh xa vời mà đang dần hiện hữu nhờ sự cộng hưởng của nội lực vĩ mô và sự sẵn sàng của các định chế tài chính.
Bất động sản dưỡng lão sẽ là mỏ vàng mới nếu Việt Nam kịp thời mở cửa chính sách

Bất động sản dưỡng lão sẽ là mỏ vàng mới nếu Việt Nam kịp thời mở cửa chính sách

Bất động sản dưỡng lão sẽ là “mỏ vàng” mới khi nhu cầu chăm sóc sức khỏe, an dưỡng và sống độc lập của người cao tuổi tăng mạnh. Tuy nhiên, để bứt phá, thị trường cần khung pháp lý rõ ràng và chính sách hỗ trợ, đó là chia sẻ của ông Neil MacGregor – Giám đốc Điều hành Savills Việt Nam với báo giới về vấn đề này.
Tín dụng tiêu dùng tăng tốc: Động lực từ vĩ mô và bài toán quản trị rủi ro

Tín dụng tiêu dùng tăng tốc: Động lực từ vĩ mô và bài toán quản trị rủi ro

Những tháng cuối năm, nhu cầu chi tiêu, mua sắm thường tăng mạnh, kéo theo nhu cầu vay tiêu dùng. Cùng với tín dụng cho sản xuất - kinh doanh, liệu tín dụng tiêu dùng có thể trở thành “điểm tựa” cho tăng trưởng tín dụng chung hay không, và rủi ro nợ xấu sẽ được kiểm soát thế nào khi các ngân hàng tăng tốc giải ngân? Trao đổi với Thời báo Ngân hàng, PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng (Học viện Ngân hàng) đã phân tích động lực vĩ mô, cảnh báo rủi ro và gợi ý giải pháp quản trị, minh bạch để vừa thúc đẩy cầu nội địa vừa bảo đảm an toàn hệ thống.
Những biến số nào đang ảnh hưởng tới mục tiêu tăng trưởng và thị trường chứng khoán?

Những biến số nào đang ảnh hưởng tới mục tiêu tăng trưởng và thị trường chứng khoán?

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam khép lại năm 2025 với tốc độ tăng trưởng ấn tượng và kỳ vọng bước vào chu kỳ phát triển mới, các yếu tố lãi suất, tỷ giá và lạm phát đang được đặt vào tâm điểm quan sát. Từ góc nhìn phân tích kinh tế – tài chính, ông Nguyễn Quang Đạt, Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán An Bình (ABS), cho rằng bối cảnh vĩ mô hiện nay vẫn đang tạo dựng nền tảng quan trọng để duy trì đà tăng trưởng, đồng thời củng cố triển vọng tích cực của thị trường trong năm 2026, dù còn một số thách thức không thể xem nhẹ.
Kinh tế xanh – hướng đi chiến lược để tăng sức cạnh tranh

Kinh tế xanh – hướng đi chiến lược để tăng sức cạnh tranh

Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động mạnh vì địa chính trị, năng lượng và biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh đang trở thành hướng đi chiến lược của nhiều quốc gia. Việt Nam nổi lên như một điểm sáng của khu vực với sự bứt tốc trong xe điện, thị trường carbon và triển khai hạ tầng năng lượng sạch – những yếu tố được xem là trụ cột cho năng lực cạnh tranh trong thập kỷ tới.
Từ "lượng" sang "chất" và vai trò trụ cột của ngành quỹ

Từ "lượng" sang "chất" và vai trò trụ cột của ngành quỹ

Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của một giai đoạn mang tính bước ngoặt: chuyển mình từ quy mô sang chất lượng, hướng tới các chuẩn mực quốc tế để đón dòng vốn ngoại hạng sang. Trong bối cảnh đó, Quyết định phê duyệt đề án "Tái cấu trúc nhà đầu tư và phát triển ngành quỹ đầu tư chứng khoán" mới đây của Bộ Tài chính không chỉ là một văn bản chính sách đơn thuần, mà được giới chuyên gia đánh giá như một "bản thiết kế tổng thể" nhằm thay đổi căn bản cách thức huy động và quản lý nguồn vốn trong nền kinh tế. Việc phát triển ngành quỹ lúc này trở thành nhu cầu cấp thiết để kiến tạo sự ổn định và bền vững cho thị trường.