Nhân rộng mô hình khu công nghiệp sinh thái để phát triển bền vững
Khu công nghiệp phải gắn với nhà ở công nhân | |
Định hướng phát triển các khu công nghiệp | |
Cổ phiếu khu công nghiệp: Điểm sáng hiếm hoi |
Đóng góp lớn nhưng hệ lụy không nhỏ
Theo số liệu của Vụ Quản lý các khu kinh tế (KKT), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT), cả nước có 369 KCN, với tổng diện tích 114 nghìn ha. Trong đó, 284 KCN đã đi vào hoạt động với diện tích 85 nghìn ha, đạt tỷ lệ lấp đầy 70,2% và 85 KCN đang xây dựng cơ bản với diện tích là 29 nghìn ha. Việt Nam cũng có 26 KKT cửa khẩu được thành lập với tổng diện tích 766 nghìn ha và 18 KKT ven biển với tổng diện tích mặt đất, mặt nước gần 853 nghìn ha.
Các KCN, KKT đã thu hút được lượng vốn đầu tư lớn, bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đã có 10.528 dự án FDI (220,18 tỷ USD) và 9.995 dự án đầu tư trong nước (DDI) với 2.420 nghìn tỷ đồng đổ vào các KCN, KKT. Các dự án trong KCN, KKT đã và đang góp phần đẩy mạnh tăng trưởng sản xuất ngành công nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế, cũng như đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Đến nay, 90% các KCN đang hoạt động đã có nhà máy xử lý nước thải tập trung. 10% còn lại chưa có nhà máy xử lý nước thải tập trung, nhưng tất cả nước thải đều được xử lý trước khi xả thải, đảm bảo quy định và yêu cầu về môi trường.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được thì việc phát triển các KCN vẫn chưa đáp ứng yêu cầu về môi trường, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển hướng mạnh sang nền kinh tế xanh.
Một trong những vấn đề hiện hữu đối với các KCN, KKT hiện nay là sự phát triển thiếu đồng bộ, gắn kết; sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài nguyên; ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường tự nhiên và môi trường sống của cộng đồng dân cư quanh KCN… Đây là những yếu tố tạo ra những thách thức đối với cộng đồng, làm giảm sức cạnh tranh cũng như ảnh hưởng mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững. Từ đó đặt ra yêu cầu và sự cần thiết phải chuyển đổi sang các mô hình KCN sinh thái bền vững.
“Việc chuyển đổi từ mô hình KCN truyền thống sang KCN sinh thái đang là đòi hỏi tất yếu tại Việt Nam”, ông Lê Thành Quân - Vụ trưởng Vụ Quản lý các KKT, Bộ KHĐT, Giám đốc Dự án "Triển khai KCN sinh thái theo hướng tiếp cận từ chương trình KCN sinh thái toàn cầu", nhận định tại Hội thảo về nâng cao năng lực Hiệu quả tài nguyên Sản xuất sạch hơn (RECP) và Cộng sinh công nghiệp (CSCN) trong KCN sinh thái tổ chức gần đây.
Đẩy mạnh mô hình khu công nghiệp sinh thái
Thực tế việc thí điểm mô hình này ở một số KCN với những kết quả rất tích cực đã cho thấy điều này. Theo đó từ năm 2015 đến 2019 với nguồn tài trợ từ Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO) và Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF), Bộ KHĐT đã phối hợp với Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) triển khai dự án thí điểm chuyển đổi KCN truyền thống sang KCN sinh thái nhằm phát triển công nghiệp từ chiều ngang sang chiều sâu và thúc đẩy sự liên kết hợp tác trong sản xuất để sử dụng hiệu quả nguồn lực. Dự án đã triển khai hỗ trợ thí điểm ở KCN Khánh Phú (Ninh Bình), KCN Hòa Khánh (Đà Nẵng) và KCN Trà Nóc 1 & 2 (Cần Thơ).
Sử dụng tài nguyên hiệu quả, sản xuất sạch hơn và nhu cầu CSCN gia tăng là những yếu tố thấy rõ nhất khi các KCN được thí điểm chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái. Nhờ đó, lợi ích kinh tế hàng năm của các tỉnh có các KCN thí điểm cũng như lợi ích về môi trường đều cải thiện rõ rệt. Đơn cử, việc tham gia áp dụng các biện pháp kỹ thuật sử dụng RECP trong khuôn khổ thí điểm đã hỗ trợ các doanh nghiệp tiết kiệm trên 17.800 Mwh điện, trên 429.000 m3 nước sạch tiêu thụ (tương đương với đó là giảm lượng nước thải) mỗi năm; giảm trên 24.800 tấn khí thải CO2, giảm hàng nghìn tấn hóa chất và chất thải rắn…
CSCN chính là tiền đề cho việc hình thành và phát triển các KCN sinh thái. Theo ông Alessandro Flammini - Điều phối viên Dự án UNIDO, KCN sinh thái cho thấy hiệu quả hơn về tài nguyên và chi phí, có tính cạnh tranh cao hơn, hấp dẫn đầu tư hơn và có khả năng chống chịu rủi ro cao hơn. “Như vậy, việc phát triển mô hình KCN sinh thái vừa giảm thiểu rủi ro về môi trường, mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp, ban quản lý KCN, cộng đồng địa phương và rộng lớn hơn là cả nền kinh tế”, chuyên gia này khẳng định.
Với những thành công trong dự án thí điểm 2015-2019 và kỳ vọng giúp Việt Nam cải thiện hơn nữa hiệu quả môi trường, hướng đến phát triển kinh tế xanh, bền vững nên SECO (đơn vị tài trợ), UNIDO và Bộ KHĐT đã tiếp tục phối hợp thực hiện Dự án "Triển khai KCN sinh thái theo hướng tiếp cận từ chương trình KCN sinh thái toàn cầu" giai đoạn 2020 - 2023 với các KCN thí điểm lần này là Hiệp Phước (TP. Hồ Chí Minh), Amata (Đồng Nai) và Deep C (Hải Phòng); đồng thời tiếp tục hỗ trợ thực hiện các giải pháp thúc đẩy CSCN tại KCN Hòa Khánh (Đà Nẵng) và KCN Trà Nóc 1 & 2 (Cần Thơ).
Ông Lê Thành Quân cho biết, mục tiêu của dự án là thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội của ngành công nghiệp và lồng ghép quy định để phát triển mô hình KCN sinh thái trong các cơ chế, chính sách có liên quan. Tuy nhiên vị này nhấn mạnh: “Mô hình KCN sinh thái chỉ thực sự phát huy được vai trò tích cực với chiến lược phát triển bền vững của quốc gia khi được nhân rộng trên cả nước, với các hỗ trợ về chính sách, công nghệ, tài chính, thông tin và cơ chế kết nối chặt chẽ giữa các bên liên quan”.
Sản xuất công nghiệp mang tính cộng sinh, tuần hoàn là hoạt động hợp tác giữa các doanh nghiệp trong một KCN hoặc với doanh nghiệp trong các KCN khác nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra như nguyên vật liệu, nước, năng lượng, chất thải, phế liệu... trong quá trình sản xuất kinh doanh.