Phát triển thị trường vốn đảm bảo yêu cầu phát triển
Hoan nghênh các nỗ lực của Việt Nam trong thúc đẩy thực hiện các mục tiêu hội nhập thị trường vốn trong khu vực ASEAN | |
Phát triển thị trường vốn: Năm trụ cột cần tập trung |
Yêu cầu cấp thiết là phải phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán |
Không thể chỉ vịn tín dụng phát triển
Phát biểu tại Diễn đàn “Phát triển thị trường vốn - Cơ hội trong kỷ nguyên mới” do Tạp chí Kinh tế và Dự báo tổ chức, TS. Nguyễn Tú Anh - Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương phân tích, theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021-2025, mục tiêu tăng trưởng GDP hàng bình quân từ 6,5 đến 7%/năm. Như vậy tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa năm khoảng 10,5%. Với tốc độ tăng trưởng đó, cùng mục tiêu tổng đầu tư xã hội hàng năm khoảng 32 - 34% GDP, trong vòng 5 năm tới tổng đầu tư toàn xã hội cần thiết khoảng 14 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước chỉ đáp ứng khoảng 20% trong tổng số vốn này tương đương với khoảng 2,75 triệu tỷ đồng. Phần còn lại hơn 11 triệu tỷ đồng chủ yếu trông chờ vào thị trường vốn.
Thực chứng cho thấy việc phát triển kinh tế nhiều năm qua gắn với sự phát triển của thị trường tín dụng. Tuy nhiên, TS. Nguyễn Tú Anh cho rằng, tăng trưởng kinh tế thời gian tới không thể dựa vào hệ thống ngân hàng như trước đây khi tăng trưởng tín dụng đã dần chạm đến tới hạn. Tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP đã tăng từ 17% vào năm 1996 lên đến 146% vào năm 2020.
Trong khi theo các chuyên gia như TS. Cấn Văn Lực – Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV và TS. Nguyễn Tú Anh, việc tăng trưởng tín dụng quá cao sẽ dẫn tới những bất ổn kinh tế. Như tăng trưởng tín dụng cao giai đoạn năm 2006 - 2007 đã gây hệ lụy lạm phát, bất ổn kinh tế trong giai đoạn 2008 - 2013 và chúng ta phải khắc phục cho tới tận ngày nay. Bởi vậy cần phải kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng. Một trong những công thức mà IMF khuyến cáo là tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng không nên vượt quá tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa cộng 3%. Như vậy, nếu GDP danh nghĩa tăng 10,5% thì tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm trong 5 năm tới phải dưới 13%. Với tốc độ đó, tăng trưởng tín dụng không thể đáp ứng được nhu cầu vốn cho nền kinh tế, chưa kể bản chất của tín dụng chủ yếu cung cấp nguồn vốn ngắn hạn.
Cần đột phá để phát triển
Trong bối cảnh đó, yêu cầu cấp thiết là phải phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán để nền kinh tế giảm bớt phụ thuộc vào tín dụng, đồng thời cung cấp đủ vốn trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế là cấp thiết.
Theo đó, TS. Tú Anh đề xuất cần tạo được các môi trường thu hút vốn đầu tư trung và dài hạn. Ở đó, không chỉ cần môi trường vĩ mô ổn định còn cần lãi suất ổn định mang tính cạnh tranh và có thể dự đoán được.
Tại diễn đàn, các chuyên gia cũng chỉ ra các thách thức cần hóa giải để phát triển thị trường vốn đặc biệt là tính minh bạch ở cả cấp quốc gia và doanh nghiệp. Với doanh nghiệp, hiện thông tin mới dừng ở mức công khai mà chưa minh bạch dẫn đến ngân hàng ngần ngại cung cấp tín dụng vì độ tin cậy không cao; thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng kém phát triển. Từ thực tế đó, TS. Nguyễn Tú Anh đề xuất cần sớm xây dựng và hoàn thiện các tổ chức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp để nhà đầu tư có cơ sở ra quyết định đầu tư.
Bổ sung thêm, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, cần có những đột phá về thể chế; định chế để nâng cao tính công khai minh bạch đặc biệt cần nâng cao năng lực quản lý hệ thống tài chính, tránh sự lan truyền rủi ro tín dụng tài chính, bảo hiểm.
Các chuyên gia cũng chỉ ra những điểm yếu của thị trường vốn cần được khắc phục trong thời gian tới đó là đa dạng hóa các sản phẩm trên thị trường chứng khoán. Do hiện nay số lượng ngành nghề không đa dạng, dẫn tới tình trạng khi nhà đầu tư bán mã hàng ngành này, nhưng lại không có mã ngành mua thay thế, hệ quả là kéo thị trường đi xuống, khiến thị trường kém ổn định. Cùng với đó là phát triển thị trường phái sinh để góp phần tăng thanh khoản, giảm thiểu rủi ro cho thị trường. Tuy nhiên TS. Nguyễn Tú Anh cũng khuyến nghị, việc áp dụng những công cụ, sản phẩm này không nên quá nhanh, có thể dẫn tới mất cân đối thị trường.
Cùng với đó, các chuyên gia đều cho rằng việc sớm hoàn thiện các yếu tố để nâng hạng Việt Nam lên thị trường mới nổi sẽ góp phần tăng tính hấp dẫn của thị trường vốn Việt Nam.
Nhìn về cơ hội đầu tư trên thị trường vốn, ông Đặng Quyết Tiến - Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Tài chính) cho biết, giai đoạn 2016 - tháng 12/2020, đã có 180 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị doanh nghiệp là 443.503 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 207.116 tỷ đồng. Tuy nhiên trong 180 doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có 37/180 doanh nghiệp cổ phần hóa thuộc danh mục cổ phần hóa theo công văn số 991/TTg-ĐMDN và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (đạt 28% kế hoạch). Tổng giá trị thực tế bán được là 22.748 tỷ đồng, đạt 23% kế hoạch dự kiến bán, tương đương 11% giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Như vậy, thời gian tới dư địa hàng hóa còn rất lớn từ việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước với 89% vốn nhà nước tại doanh nghiệp sẽ góp phần đa dạng hàng hóa, nâng cao tính hấp dẫn của thị trường.
Bên cạnh kênh tín dụng và chứng khoán, TS. Cấn Văn Lực chỉ ra các kênh dẫn vốn khác trên thị trường mà doanh nghiệp có thể xem xét vịn vào phát triển. Trong đó, có nguồn vốn từ NSNN; đối tác của doanh nghiệp; nguồn vốn nước ngoài thông qua việc bán cổ phần, trái phiếu ra nước ngoài; vốn từ các quỹ của Chính phủ và địa phương; tài trợ chuỗi cung ứng với sự tham gia của các tổ chức phi ngân hàng. Huy động vốn qua cho thuê tài chính được xem là kênh khá phù hợp với doanh nghiệp nhỏ và vừa khi không phải thế chấp tài sản, nhưng hiện rất ít doanh nghiệp chú ý.