Chỉ số kinh tế:
Ngày 16/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.141 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.937/26.351 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Năm 1740, chúa Trịnh Doanh lập con trai vua Lê Thuần Tông là Lê Duy Diêu lên ngôi (tức vua Lê Hiển Tông), đặt niên hiệu là Cảnh Hưng. Lê Hiển Tông là ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử phong kiến nước ta...
aa
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ I - Tiền đời vua Lê Trang Tông (1533 - 1548) Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ II - Tiền đời vua Lê Thế Tông (1573 - 1599) Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ III - Tiền đời vua Lê Hy Tông (1675 - 1705) và Tiền đời vua Lê Dụ Tông (1705 - 1729)

Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)

Năm 1740, chúa Trịnh Doanh lập con trai vua Lê Thuần Tông là Lê Duy Diêu lên ngôi (tức vua Lê Hiển Tông), đặt niên hiệu là Cảnh Hưng. Lê Hiển Tông là ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Trong 47 năm trị vì đất nước, vua Lê Hiển Tông chỉ dùng một niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) và cho đúc rất nhiều loại tiền đồng khác nhau, đa dạng về chủng loại, phong phú về kiểu chữ. Tiền Cảnh Hưng gồm 2 chủng loại chính là Cảnh Hưng thông bảo và Cảnh Hưng tạp bảo.

a. Tiền Cảnh Hưng thông bảo

Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.7. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Lệ thư, lưng tiền trơn, đk 25-25,5mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.8. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Triện thư, lưng tiền trơn, đk 24,5mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.9. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Tạp thư, lưng tiền trơn, đk 25mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.10.Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 26mm-26,5mm

Từ năm thứ nhất đến năm thứ 23 của niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1762) có rất nhiều đợt đúc tiền Cảnh Hưng thông bảo. Mới đầu, tiền được đúc ở Kinh đô Thăng Long, sau đó nhiều địa phương đều cho mở xưởng đúc tiền. Ngoài tiền quan chú (do chính quyền địa phương đúc) còn có tiền do tư nhân đúc. Có thể nói “khắp nơi có lò đúc tiền” công - tư bất phân, thật - giả khó biết. Niên hiệu Cảnh Hưng năm 14 (1753), tháng 7, chúa Trịnh Doanh phải ra lệnh phế bỏ các xưởng đúc tiền ở địa phương, chỉ giữ lại hai xưởng đúc tiền là Nhật Chiêu và Cầu Giền ở Thăng Long, để chính quyền Trung ương quản lý, phòng việc lạm phát tiền Cảnh Hưng. Tuy vậy, chính sách này có tác dụng rất hạn chế, việc đúc tiền vẫn tràn lan không thể kiểm soát nổi. Do đó, ngày nay, chúng ta phát hiện được rất nhiều loại tiền Cảnh Hưng thông bảo, loại to, loại nhỏ, loại tiền lưng trơn, loại tiền lưng có chữ hoặc hoa văn; có tiền bằng đồng, có tiền bằng đồng pha kẽm, tiền bằng chì; thư pháp cũng rất phức tạp, một chữ đúc theo nhiều cách, một đồng tiền dùng nhiều kiểu chữ.

- Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, lưng tiền trơn Đường kính 24mm - 26,5mm, dày 1,2 - 1,5mm, nặng 3,5 - 4,1gr.

Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.11. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ
“Nhất”- 一 (1740),đk 24,5mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.12. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Tân Dậu”- 辛酉(1741), đk 24,2mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.13. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Tam” - 三 (1742), đk 25-25,5mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.14. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Trung” - 中 ( Trung ương), đk 24mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.16.Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư,
lưng tiền đúc chữ “Bắc” - 北 ( Kinh Bắc), đk 24mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.17. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Công”- 工 (Bộ Công), đk 22-25,5mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.18.Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Bạch”- 帛 (Tơ lụa), đk 23,5-24mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.19.Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Tây” - 西 (Sơn Tây), đk 24,2mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.20. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Thái”- 太 (Thái Nguyên), đk 23,8-24,5mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.21. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Sơn Tây” - 山西, đk 24,0-24,1mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.22. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳 kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Sơn Nam”- 山南, đk 23-23,5 mm
Tiền triều Lê Trung Hưng (1533 - 1789) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786)
Ảnh 1.8.23. Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền có hai chữ
(Kiểu chữ Triện- Chưa đọc được), đk 25mm

- Tiền Cảnh Hưng thông bảo 景興通寳, lưng tiền đúc chữ

Chữ đúc ở lưng tiền thường là để kỷ niệm năm đúc hoặc nơi đúc. Loại tiền kỷ niệm năm đúc gồm loại ghi năm Can Chi và loại ghi số. Loại ghi năm Can Chi hiện đã thấy Canh Thân 庚申 (1740), Tân Dậu 辛酉(1741), Nhâm Tuất 壬戌 (1742). Loại ghi số, có số Nhất 一 chỉ năm niên hiệu Cảnh Hưng thứ nhất (1740), số Tam 三- chỉ năm thứ ba của niên hiệu Cảnh Hưng (1742). Tiền Cảnh Hưng thông bảo, lưng tiền ghi nơi đúc gồm có các chữ như “Sơn Tây” 山西, “Sơn Nam” 山南, “Kinh” 京, “Công” 工, “Tây” 西, “Thái” 太, “Bắc” 北, “Trung” 中, “Bạch” 帛,… Tiền có chữ ghi địa danh này có thể là do nhu cầu kiểm soát, phòng trừ lạm phát. Năm Cảnh Hưng thứ 21 (1760), vua Lê Hiển Tông buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các xưởng đúc tiền ở địa phương. Sơn Tây là địa phương đầu tiên bỏ lệnh cấm, các địa phương khác, dần dần, theo đó hoạt động trở lại. Từ năm Cảnh Hưng 21 (1760) đến năm 23 (1762), các xưởng đúc tiền địa phương được công khai đúc tiền, nhưng lưng tiền phải ghi địa danh và có một chức quan chuyên làm công việc đốc thúc, giám sát. Do đó, dù có khác nhau, nhưng tiền đúc ra đều tương đối quy phạm. Đường kính từ 24 - 25mm, dày 1 - 1,5mm, nặng 3 - 4,2gr.

Đón đọc Kỳ V: Tiền đời vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786) phần tiếp theo


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa:Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.