Chỉ số kinh tế:
Ngày 16/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.141 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.937/26.351 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền triều Tây Sơn (1778 - 1802) Kỳ II - Tiền đời Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ (1788 - 1792)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Trong thời gian ở ngôi, Hoàng đế Quang Trung đã cho đúc hai loại tiền đồng: Quang Trung thông bảo và Quang Trung đại bảo. Số lượng tiền phát hành giai đoạn này là nhiều nhất trong 20 năm tồn tại của chính quyền Tây Sơn...
aa

Trong thời gian ở ngôi, Hoàng đế Quang Trung đã cho đúc hai loại tiền đồng: Quang Trung thông bảo và Quang Trung đại bảo. Số lượng tiền phát hành giai đoạn này là nhiều nhất trong 20 năm tồn tại của chính quyền Tây Sơn.

Tiền Quang Trung, có thể phân chia thành 2 giai đoạn, mang phong cách khác nhau. Đây có thể được xem như là một cách thay đổi kỹ nghệ đúc tiền dưới thời vua Quang Trung.

- Giai đoạn đầu: Tiền Quang Trung có phong cách hoàn toàn theo giống như tiền Thái Đức và Minh Đức của Nguyễn Văn Nhạc, tiền đúc tương đối dày và ít thay đổi. Đây có thể là các loạt tiền đúc trong năm đầu tiên, các loại tiền này thường dày hơn loại cùng niên hiệu sau này. Tiền Quang Trung đại bảo 光中大宝, lưng trơn, đường kính phổ biến khoảng 22mm - 23,3mm và loại tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳, lưng tiền đúc chữ “An Nam” - 安南 đúc theo lối Giáp cốt, có đường kính 24,5mm đều thuộc giai đoạn đầu. Tiền Quang Trung lưng có chữ “An Nam” - 安南 có thể được xem như là một chính sách ngoại giao khôn khéo nhằm khẳng định sự bình an của một quốc gia có chủ quyền của vua Quang Trung.

Tiền triều Tây Sơn (1778 - 1802) Kỳ II - Tiền đời Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ (1788 - 1792)
Ảnh 1.10.4. Tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳, kiểu chữ Chân, lưng tiền đúc chữ
“An Nam”- 安南, kiểu chữ Giáp cốt, đường kính 24,5mm
Tiền triều Tây Sơn (1778 - 1802) Kỳ II - Tiền đời Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ (1788 - 1792)
Ảnh 1.10.5. Tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳, kiểu Chân thư,
lưng tiền trơn, đường kính 23,5-25mm
Tiền triều Tây Sơn (1778 - 1802) Kỳ II - Tiền đời Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ (1788 - 1792)
Ảnh 1.10.6. Tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền có hình vành trăng khuyết, đường kính 24,3-24,5mm

- Giai đoạn sau: Tiền Quang Trung thay đổi hoàn toàn, theo một kỹ thuật khuôn đúc khác hẳn: Chữ đúc mảnh, tiền rất mỏng, dẫn đến số lượng tiền đúc được nhiều hơn. Điều này có thể được xem như một cuộc cách mạng trong kỹ thuật đúc tiền Việt Nam làm tiền đề cho đến đầu đời Gia Long vẫn tiếp thu đúc tiền theo phong cách này. Mặc dù tiền đúc mỏng nhưng chữ trên tiền rất rõ nét. Cải cách kỹ thuật đã đem đến hiệu quả, làm cho chính sách tiền tệ có lợi, tạo sự lưu thông tiền tệ mạnh mẽ hơn. Tiền Quang Trung giai đoạn này có đường kính từ 21,2mm - 25,2mm.

Tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳

Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Quang Trung thông bảo”- 光中通寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ nhỏ, nét chữ mảnh, rõ ràng. Chữ “Thông”- 通 có loại đầu hình tam giác, có loại đầu hình vuông; chữ “Trung”- 中có nét sổ khi dài, khi ngắn; chữ “Bảo”- 寳có kiểu phồn thể và giản thể. Biên tiền cũng có loại rộng, loại hẹp, do đó, bố cục chữ trên tiền cũng rất khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm của lưng tiền, có thể tạm chia Tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳 thành hai loại:

- Loại thứ nhất: Lưng tiền có nhiều kiểu: lưng bằng phẳng, không có biên tiền và viền lỗ, có loại biên và viền lỗ lại rất sâu, có loại mặt sau có 4 hình trăng khuyết hướng ra ngoài hoặc hướng vào trong. Ngoài ra còn có loại tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳 có hai đường biên ở một mặt hoặc ở cả hai mặt... Đường kính 23,5-25mm, dày 0,5- 0,7mm, nặng 1,8 - 2,1gr

Tiền triều Tây Sơn (1778 - 1802) Kỳ II - Tiền đời Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ (1788 - 1792)
Ảnh 1.10.7. Tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳, kiểu Chân thư,
lưng tiền đúc chữ “Công”- 工, đường kính 24,2mm
Tiền triều Tây Sơn (1778 - 1802) Kỳ II - Tiền đời Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ (1788 - 1792)
Ảnh 1.10.8. Tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳, kiểu Chân thư,
lưng tiền đúc chữ “Nhất”- 一, đường kính 22,2mm
Tiền triều Tây Sơn (1778 - 1802) Kỳ II - Tiền đời Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ (1788 - 1792)
Ảnh 1.10.9. Tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳,
kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Nhị”- 二, đường kính 25 mm

- Loại thứ hai: Lưng tiền đúc chữ với nhiều kiểu dạng khác nhau: Chữ “Công”- 工, chữ “An Nam”- 安南, chữ “Nhất” 一, chữ “Nhị” 二… Ở loại này, còn có nhiều đồng tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳 hai mặt chữ. Đường kính 22,2- 25mm, dày 0,7-0,9mm, nặng 1,8-2,1gr.

Tiền triều Tây Sơn (1778 - 1802) Kỳ II - Tiền đời Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ (1788 - 1792)
Ảnh 1.10.10. Tiền Quang Trung thông bảo 光中通寳, kiểu Chân thư -
Hai mặt đều có chữ, đường kính 24,5mm

Tiền Quang Trung đại bảo 光中大宝

Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Quang Trung đại bảo”- 光中大宝 theo kiểu Chân thư, đọc chéo, chữ “Bảo” giản thể (宝). Khổ chữ nhỏ, nét chữ mảnh, rõ ràng. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều rất rộng. Tiền rất mỏng. Nhìn chung, loại tiền này có sự thay đổi về thư pháp khá đa dạng. Đường kính 24,8mm, dày 0,7 mm, nặng 1,6gr.

Tiền triều Tây Sơn (1778 - 1802) Kỳ II - Tiền đời Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ (1788 - 1792)
Ảnh 1.10.11. Tiền Quang Trung đại bảo 光中大宝, kiểu Chân thư,
lưng tiền trơn, đường kính 24,8mm

Đón đọc Kỳ III: Tiền đời Hoàng đế Cảnh Thịnh - Nguyễn Quang Toản (1793 - 1802)


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa:Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Ngân hàng Đông Dương phát hành bộ tiền xu nhôm gồm các mệnh giá 20 cent, 10 cent và 5 cent để thay thế tiền hợp kim trước đó. Đồng 20 cent (1945) giữ nguyên họa tiết cũ, được đúc tại ba xưởng ở Pháp: Paris (không ký hiệu), Beaumont–Le Roger (B) và Castelsarrasin (C), với kích thước 27 mm, dày 1,7 mm và nặng 2,2 g. Đồng 10 cent (1945) có thiết kế tương tự, do Paris và Beaumont–Le Roger sản xuất, đường kính 23 mm, dày 1,5 mm và nặng 2,2 g. Năm 1946, đồng 5 cent được phát hành, vẫn đồng bộ về họa tiết, đúc tại Paris và Beaumont–Le Roger, kích thước 18 mm, dày 1,3 mm, nặng 0,8 g. Bộ tiền xu phản ánh sự thay đổi vật liệu và tiêu chuẩn đúc thời hậu chiến.