Chỉ số kinh tế:
Ngày 4/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.152 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.946/26.360 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Ngân hàng Đông Dương phát hành bộ tiền xu nhôm gồm các mệnh giá 20 cent, 10 cent và 5 cent để thay thế tiền hợp kim trước đó. Đồng 20 cent (1945) giữ nguyên họa tiết cũ, được đúc tại ba xưởng ở Pháp: Paris (không ký hiệu), Beaumont–Le Roger (B) và Castelsarrasin (C), với kích thước 27 mm, dày 1,7 mm và nặng 2,2 g. Đồng 10 cent (1945) có thiết kế tương tự, do Paris và Beaumont–Le Roger sản xuất, đường kính 23 mm, dày 1,5 mm và nặng 2,2 g. Năm 1946, đồng 5 cent được phát hành, vẫn đồng bộ về họa tiết, đúc tại Paris và Beaumont–Le Roger, kích thước 18 mm, dày 1,3 mm, nặng 0,8 g. Bộ tiền xu phản ánh sự thay đổi vật liệu và tiêu chuẩn đúc thời hậu chiến.
aa
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Tiền bằng nhôm

Tiền 20 cent: Năm 1945, Ngân hàng Đông Dương cho đúc các đồng xu nhôm mệnh giá 20 cent, họa tiết không khác gì so với đồng 20 cent và 10 cent hợp kim niken - đồng của thời kỳ trước. Mệnh giá này được đúc tại ba xưởng khác nhau tại Pháp (đồng không có ký hiệu gì được đúc tại Paris, đồng có ký hiệu B được đúc tại Beaumont - Le Roger, đồng có ký hiệu C được đúc tại Castelsarrasin). Các đồng xu đều có đường kính 27mm, dày 1,7mm, trọng lượng 2,2gr

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm
Tiền nhôm 20 cent, 1945 đường kính 27mm

Tiền 10 cent: Năm 1945, Ngân hàng Đông Dương cho đúc đồng xu nhôm mệnh giá 10 cent, họa tiết giống đồng xu 20 cent và 10 cent hợp kim niken - đồng và 20 cent nhôm 1945. Các đồng xu loại này được đúc tại hai xưởng khác nhau tại Pháp (đồng không có ký hiệu gì được đúc tại Paris, đồng có ký hiệu B được đúc tại Beaumont - Le Roger). Các đồng xu này có đường kính 23mm, dày 1,5mm, nặng 2,2gr.

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm
Tiền nhôm 10 cent, 1945, đk 23mm

Tiền 5 cent: Loại tiền này được Ngân hàng Đông Dương cho phát hành năm 1946, họa tiết của chúng giống đồng 20 cent và 10 cent hợp kim niken - đồng, 10 cent và 20 cent nhôm 1945. Chúng được đúc tại hai xưởng khác nhau tại Pháp (đồng không có ký hiệu gì được đúc tại Paris, đồng có ký hiệu B được đúc tại Beaumont - Le Roger). Các đồng xu loại này có đường kính 18mm, dày 1,3mm, trọng lượng 0,8gr.

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm
Tiền nhôm 5 cent, 1946, đường kính 18mm
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp tái chiếm Sài Gòn, sau đó mở rộng ra đánh chiếm toàn Nam Bộ, khôi phục lại chế độ thực ...

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng kẽm Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng kẽm

Tiền 1 cent: Trong hai năm 1940 và 1941, Ngân hàng Đông Dương cho đúc tại Hà Nội (Việt Nam) 3 loại tiền xu hình ...


Nguồn: Tác phẩm ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng đồng

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng đồng

Kể từ khi kinh thành Huế thất thủ (1885) đến ngày Nhật đảo chính Pháp (3/9/1945), Ngân hàng Đông Dương đã đưa vào lưu thông 210 mẫu đồng tiền kim loại Đông Dương Indochine, gồm 12 mệnh giá, bằng nhiều chất liệu khác nhau (bạc, đồng, niken, nhôm và kẽm). Đó là các loại mệnh giá: 1 piastre; 50 cent, 20 cent, 10 cent, 5 cent, 1 cent, 1/2 cent, 1/4 cent, 1/5 cent, 1/6 cent và 1 Tael, 1/2 Tael dùng cho việc giao dịch ngoại thương với nước khác. Ngoài 210 mẫu trên, trước thời điểm thành lập Liên bang Đông Dương (17/10/1887), Ngân hàng Đông Dương đã đưa vào lưu thông 6 mẫu đồng tiền kim loại Cochinchine với 5 mệnh giá khác nhau.
Tiền Nam Kỳ thuộc Pháp - Cochinchine (1875 – 1885) - Tiền Bằng Bạc

Tiền Nam Kỳ thuộc Pháp - Cochinchine (1875 – 1885) - Tiền Bằng Bạc

Tiền kim loại bạc đúc trong giai đoạn này có 4 loại mệnh giá khác nhau: 1 piastre, 50 cent, 20 cent và 10 cent. Đồng 1 piastre được người dân quen gọi là “Đồng bạc Đông Dương” hay “Đồng bà đầm” nhằm phân biệt với đồng 8 Reals của Mê hi cô còn được gọi là đồng “Hoa xòe”, “Con cò” hay “Con ó”.
Tiền Đông Dương giai đoạn 1875-1945

Tiền Đông Dương giai đoạn 1875-1945

Trong giai đoạn này, việc lưu hành tiền Đông Dương được phân chia làm hai thời kỳ khác biệt. Thời kỳ đầu từ ngày 21/01/1875 (Ngân hàng Đông Dương thành lập) đến ngày 05/7/1885 (kinh thành Huế thất thủ), được gọi là Nam Kỳ thuộc Pháp (Cochinchine). Thời kỳ sau bắt đầu từ sau ngày 05/7/1885 đến ngày 29/07/1941 (Nhật và Pháp ký hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương), được gọi là thời kỳ Pháp thuộc.
Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955)

Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955)

Ngày 1/9/1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng đánh chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Từ năm 1862 đến năm 1884, triều đình Huế lần lượt ký các Hòa ước đầu hàng Pháp. Sự kiện Kinh đô Huế thất thủ (05/7/1885) đã chấm dứt quyền lực tuyệt đối của triều đình nhà Nguyễn.
Tiền thời vua Bảo Đại (1925 - 1945)

Tiền thời vua Bảo Đại (1925 - 1945)

Vua Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ, con của vua Khải Định, lên ngôi năm 1925, niên hiệu là Bảo Đại. Tiền thời vua Bảo Đại có các loại bằng đồng, bạc và vàng.