Tìm giải pháp đột phá cho thị trường tài chính xanh
Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thường niên 2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính một lần nữa tái khẳng định: Tăng trưởng xanh là một trong những yếu tố cốt lõi của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và phát triển nhanh, bền vững đất nước. Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng xanh, Việt Nam cần sớm có các giải pháp đột phá trong phát triển thị trường tài chính xanh. Đây là một trong những điểm mấu chốt được các chuyên gia chỉ ra tại Hội thảo: “Phát triển thị trường tài chính xanh ở Việt Nam: Những rào cản, vấn đề cấp bách và giải pháp đột phá” do Viện Kinh tế Việt Nam tổ chức sáng 31/10/2024.
Cơ hội và thách thức
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới ( năm 2022) cho thấy, để theo đuổi lộ trình phát triển kết hợp khả năng chống chịu và phát thải ròng bằng 0, Việt Nam cần khoản đầu tư tương đương 6,8% GDP mỗi năm, khoảng 368 tỷ USD cho đến năm 2040. "Điều này đòi hỏi phải có các cơ chế, chính sách và giải pháp huy động nguồn vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy phát triển thị trường tài chính xanh, khuyến khích dòng vốn tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực xanh" TS. Bùi Thị Quỳnh Thơ, Uỷ viên chuyên trách Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội nhấn mạnh tại hội thảo.
Trên thế giới và khu vực, thị trường tín dụng xanh và trái phiếu xanh đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây qua việc huy động vốn cho các dự án tiết kiệm năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo và công nghệ sạch cùng các dự án có gắn các mục tiêu môi trường nhằm hướng đến mục tiêu “kép” là tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Riêng khu vực ASEAN + 3, theo Báo cáo của ADB, thị trường trái phiếu bền vững đạt quy mô gần 800 tỷ USD năm 2023, gấp hơn 7 lần so với 2017.
Tại Việt Nam, từ năm 2017 đến nay, thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh đã có tốc độ phát triển hơn 20%/năm, cao hơn hẳn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế. Một số trái phiếu xanh chính quyền địa phương, trái phiếu xanh doanh nghiệp được phát hành thí điểm, đặc biệt trái phiếu cho các dự án xanh có quy mô lớn như năng lượng tái tạo, vận tải xanh, bất động sản xanh. Theo Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2019 - 2023, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh. Tuy nhiên, thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh của Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và với nhu cầu huy động vốn cho chuyển đổi xanh. Tín dụng xanh mới chiếm khoảng 4,4% tổng dự nợ toàn nền kinh tế; con số 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh phát hành trong 5 năm qua vẫn còn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn khoảng 20 tỷ USD trung bình mỗi năm để thực hiện các mục tiêu chuyển đổi xanh, dự án xanh.
TS. Lê Xuân Sang, Phó viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam chỉ ra những dấu hiệu làm chậm xu thế chuyển đổi xanh do tác động của biến động địa chính trị, kinh tế, nhất là chiến sự Nga – Ucraina khiến quá trình tiêu dùng, sản xuất xanh chững lại ở một số nước . Ví dụ, quá trình xanh hóa sản xuất ô tô (nhất là pin xe điện gặp nhiều trở ngại), khiến một số doanh nghiệp từ bỏ chương trình ô tô điện (như Ford). Kinh tế thế giới sau tác động của đại dịch, xung đột , đình trệ/suy thoái tăng trưởng... khiến các quốc gia dồn nguồn lực cho phục hồi, nợ công tăng, làm trì hoãn nguồn vốn cho tăng trưởng/chuyển đổi xanh.
Đặc biệt việc quy hoạch, xây dựng khung pháp lý, quy định đối với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn nói chung và thị trường tài chính nói riêng, nhất là ở Việt Nam mới ở bước đầu; Hệ thống thông tin về kinh tế xanh, tài chính xanh còn thiếu, không nhất quán và ít được kiểm định;Cơ chế đầu tư cho đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số nhìn chung vẫn theo kiểu đầu tư phát triển, bảo toàn vốn nên khó có thể thúc đẩy phát triển đổi mới sáng tạo, nhất là phát triển công nghệ hướng tới chuyển đổi xanh.
Phát triển thị trường tài chính xanh thêm thách thức khi việc định giá tài chính xanh gặp khó khăn do thiếu tiêu chuẩn hóa và thiếu dữ liệu sẵn có, thiếu quy định, khái niệm rõ ràng khiến trên thị trường hiện có cả công ty xanh “dởm”. Bên cạnh đó là khó khăn trong việc xác định rủi ro, mức độ hiệu quả chuyển đổi nâu sang xanh, nhất là khi thiếu về năng lực phân tích, số liệu, thông tin... liên quan. Danh mục xanh chậm ra đời, chưa đầy đủ. Cơ hội đầu tư lĩnh vực khác có thể lớn hơn trong các ngành khác đã quen, có lợi nhuận kỳ vọng lớn hơn, với rủi ro ít hơn.
Các định chế cho vay, phát hành cũng gặp khó khi khái niệm, quy định chưa chặt chẽ về trái phiếu xanh có thể bị lạm dụng thành trái phiếu xanh dởm/rửa xanh. Rủi ro “sai lệch kép” của NHTM trong việc có thể phải dùng vốn đầu tư ngắn hạn để dùng đầu tư dài hạn (15-20 năm) dẫn đến sai lệch kỳ hạn và rủi ro do biến động tỷ giá.
Xác lập luật chơi và tạo niềm tin cho thị trường
Để hóa giải những nút thắt này, Chuyên gia Kinh tế trưởng tại Việt Nam Văn phòng ADB tại Việt Nam, Nguyễn Bá Hùng khuyến nghị: Việt Nam cần hoàn thiện khung pháp lý về kinh tế xanh và tài chính xanh; Xác định mục tiêu định lượng cụ thể phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam, và tạo động lực phát triển tài chính xanh. Đồng thời chủ động tiếp cận các nguồn vốn quốc tế thông qua hợp tác song phương và các tổ chức tài chính quốc tế để thu hút nguồn vốn; Đẩy nhanh tiến độ thực hiện xác nhận chứng chỉ carbon, hình thành thị trường carbon trong nước và kết nối với thị trường carbon quốc tế. Trong hành trình này, Chính phủ có thể có những bước đi tiên phong trong việc phát hành trái phiếu xanh, trên cơ sở hệ thống quản lý chi ngân sách cho các hạng mục xanh.
TS. Lê Xuân Sang đề xuất, cần xây dựng hữu hiệu, thông tin thị trường, dữ liệu, danh sách trái phiếu/cổ phiếu xanh, với định nghĩa pháp lý rõ ràng; tiêu chí chặt chẽ trong huy động vốn, các khuyến khích hữu hiệu nhằm xây dựng lòng tin, đáp ứng lợi ích/kỳ vọng các nhóm nhà đầu tư. Ông cũng nhấn mạnh, để phát triển vững chắc và lành mạnh thị trường tài chính xanh, cần xác lập luật chơi cho thị trường, cùng với đó là khai thác hiệu quả thị trường tài chính truyền thống; Tạo dựng niềm tin, kỷ luật thị trường trong đó có tính đến bối cảnh mới .
Riêng với thị trường tín dụng xanh, PGS.TS. Phạm Thị Hoàng Anh, Phó Giám đốc Học Viện Ngân hàng chỉ ra: Động lực của tăng trưởng tín dụng xanh tại Việt Nam chủ yếu đến từ định hướng chính sách của NHNN hơn là nhu cầu phát triển của các NHTM. Các tài liệu như Sổ tay đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đối với một số ngành vẫn chỉ mang tính tham khảo, khuyến khích chứ chưa mang tính bắt buộc. Do đó, chúng ta cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến tín dụng xanh theo hướng tăng cường tính bắt buộc để đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh; Đồng thời đa dạng hóa các nguồn vốn cho tín dụng xanh tại Việt Nam, xem xét ưu tiên nguồn vốn cho tín dụng xanh, tín dụng cho phát triển bền vững thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
Bà cũng khuyến nghị trong thiết kế chính sách thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh cần đa dạng hóa các hình thức khuyến khích tín dụng xanh, không phụ thuộc vào phương thức hỗ trợ tài chính (giảm lãi suất, gia hạn vay, v.v...). Bên cạnh đó cần thực hiện đồng bộ các chính sách hỗ trợ khác như phát triển trái phiếu xanh; giáo dục và tuyên truyền nâng cao nhận thức; thay đổi chính sách thu hút đầu tư nước ngoài FDI; thúc đẩy việc sử dụng báo cáo bền vững.