Vì sao cần ban hành Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng?
Tăng cường mối quan hệ ngân hàng - fintech Cần có quỹ đầu tư để hỗ trợ các Fintech khởi nghiệp Nhà băng, fintech “chạy đua” trên mạng xã hội |
Cần thiết ban hành Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng
Về chủ trương, định hướng của Nhà nước, theo cơ quan soạn thảo, trong thời gian qua, đứng trước những cơ hội và thách thức mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (CMCN 4.0) mang lại, Đảng và Nhà nước đã có nhiều văn bản chỉ đạo, định hướng phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong những năm tới, bao gồm việc thúc đẩy, tạo điều kiện cho các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới, các ứng dụng khoa học công nghệ trên cơ sở tận dụng thành tựu của CMCN 4.0.
Về cơ sở pháp lý, ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã ban hành Luật Các tổ chức tín dụng số 32/2024/QH15 (Luật Các TCTD 2024), trong đó quy định Điều 106. Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Luật Các TCTD mới được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, ban hành Nghị định thông qua việc giao Chính phủ quy định chi tiết về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng.
Trên cơ sở thực tiễn trong thời gian qua, ngành ngân hàng thế giới nói chung, ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng đã chứng kiến xu hướng ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ mới gắn với thành tựu của CMCN 4.0 như điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn (Big data Analytics), chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng mở (open API), chuỗi khối (Blockchain), trí tuệ nhân tạo (AI)... vào các mô hình kinh doanh, cung ứng sản phẩm, dịch vụ, cách thức tiếp cận và tương tác với khách hàng của các ngân hàng, TCTD nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và gia tăng trải nghiệm khách hàng, giúp khách hàng giao dịch nhanh chóng, an toàn, thuận tiện với các dịch vụ phù hợp, chi phí hợp lý.
Ngành ngân hàng thế giới nói chung, ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng đã chứng kiến xu hướng ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ mới gắn với thành tựu của CMCN 4.0 |
Tại Việt Nam, xu hướng phát triển Fintech còn được thể hiện rõ nét qua việc các công ty khởi nghiệp công nghệ, các tổ chức không phải là ngân hàng (non-banks) có thế mạnh công nghệ tham gia vào các mảng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính (công ty Fintech) dưới hình thức phát triển các giải pháp hỗ trợ hoạt động ngân hàng mà không trực tiếp cung ứng dịch vụ tới người dùng cuối (end-users) hoặc trực tiếp cung ứng giải pháp mới một cách độc lập. Cụ thể hơn, một vài năm gần đây đã chứng kiến sự hình thành và phát triển của số lượng lớn các công ty Fintech tham gia vào nhiều mảng, lĩnh vực hoạt động khác nhau như thanh toán, cho vay ngang hàng (P2P Lending), chấm điểm tín dụng, quản lý tài chính cá nhân,... Lĩnh vực Fintech còn thu hút được sự tham gia của nhiều công ty, doanh nghiệp công nghệ lớn trong nước, thường là các công ty có thế mạnh về công nghệ thông qua các hoạt động trực tiếp đầu tư hình thành các công ty Fintech, hay gián tiếp thông qua thành lập các quỹ đầu tư, tạo vườn ươm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp Fintech.
Sự phát triển nhanh chóng, mở rộng phạm vi của Fintech đã khiến cơ quan quản lý tài chính - tiền tệ của nhiều quốc gia phải đối mặt với những khó khăn, thách thức trong công tác quản lý, giám sát như nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố (AML/CFT), đảm bảo an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu người dùng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và nhà đầu tư…
Cũng như nhiều cơ quan quản lý trên thế giới, NHNN và một số cơ quan liên quan cũng đang gặp phải những thách thức mới trong công tác quản lý Nhà nước với sự xuất hiện của các công ty Fintech cung ứng hoặc tham gia, hợp tác cung ứng dịch vụ, giải pháp trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau như thanh toán, P2P Lending, chấm điểm tín dụng,...
Các mảng, lĩnh hoạt động này của các công ty Fintech kể trên hầu hết hiện chưa có khung pháp lý toàn diện hoặc quy định pháp lý cụ thể để điều chỉnh, do đó có thể tiềm ẩn rủi ro, hệ lụy tiêu cực trên một số phương diện như cạnh tranh công bằng, ổn định tài chính, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, an ninh mạng. Thêm vào đó, xu hướng phát triển đan xen cùng “hợp tác - cạnh tranh” nêu trên đặt ra nhiều thách thức về mặt chính sách, quy định đối với các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc hài hòa giữa thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cạnh tranh công bằng giữa các tổ chức tài chính truyền thống và công ty Fintech với đảm bảo ổn định tài chính, bảo vệ người tiêu dùng, an ninh mạng.
Đơn cử như trong hoạt động P2P Lending nổi lên tại Việt Nam trong giai đoạn gần đây, một số công ty lấy danh nghĩa mô hình P2P Lending lợi dụng sự thiếu kiến thức, hiểu biết của người dân để lừa bịp, gian dối, quảng cáo sai sự thật, hứa hẹn lợi nhuận cao, lãi suất cao để lừa đảo, chiếm đoạt tiền vốn của người dân bỏ tiền đầu tư mô hình cho vay này hoặc lừa dối người vay về lãi suất “thấp”, điều kiện vay ưu đãi trong khi tính và áp dụng mức lãi suất thực tế cao “cắt cổ”, tác động tiêu cực đến cuộc sống của người dân. Một số thỏa thuận giữa các bên tham gia trong mô hình P2P Lending thiếu rõ ràng, minh bạch, thiếu ràng buộc có tính pháp lý, chưa có cơ chế giám sát, hậu kiểm đối với việc sử dụng, quản lý vốn vay đúng mục đích của người đi vay, nên có thể dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện giữa các bên.
Trong xu hướng và bối cảnh trên, Việt Nam cần sớm xây dựng một khung khổ quản lý dưới hình thức Nghị định quy định về cơ chế thử nghiệm đối với hoạt động Fintech nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nhân danh Fintech, bảo vệ lợi ích của người sử dụng dịch vụ; đồng thời, quá trình vận hành khung khổ này cung cấp cơ sở thực tiễn để các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành, hoàn thiện khung khổ pháp lý, ban hành quy định quản lý theo hướng tạo thuận lợi, thích ứng đối với hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng trong thời gian tới.
4 mục tiêu chính về cơ chế thử nghiệm
Theo cơ quan soạn thảo, trên cơ sở nghiên cứu các thông lệ tốt nhất về chính sách quản lý hoạt động Fintech trên thế giới, căn cứ vào tình hình thực tiễn hoạt động Fintech tại Việt Nam, NHNN đề xuất, hoàn thiện Dự thảo Nghị định với quan điểm phòng ngừa, hạn chế tối đa rủi ro trong quá trình thử nghiệm. Từ đó rút ra những bài học quản lý hiệu quả, hướng đến xây dựng một khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện cho thúc đẩy đổi mới sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo ổn định tài chính, bảo vệ người tiêu dùng, an ninh mạng.
Nghị định được xây dựng với 4 mục đích chính gồm:
Thứ nhất, quy định các chuẩn mực, nguyên tắc cho sự vận hành Cơ chế thử nghiệm, đề ra các nguyên tắc, quy trình, thủ tục, tiêu chí xét duyệt, biện pháp kiểm soát đối với việc thử nghiệm các giải pháp Fintech đổi mới sáng tạo tham gia Cơ chế thử nghiệm;
Thứ hai, sử dụng kết quả, thông tin đầu vào của Cơ chế thử nghiệm để sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành, ban hành quy định mới, cải cách khung khổ pháp lý của ngành ngân hàng theo hướng thích ứng, tạo thuận lợi cho hoạt động Fintech;
Thứ ba, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam dựa trên ứng dụng công nghệ/giải pháp Fintech, tạo thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và bảo đảm an ninh mạng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
Thứ tư, thúc đẩy phổ cập tài chính diện theo hướng ứng dụng công nghệ/giải pháp Fintech sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân chưa có tài khoản ngân hàng hoặc chưa được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ ngân hàng - tài chính.
Thông qua Nghị định này, Chính phủ tạo ra một cơ chế khuyến khích, tạo thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp nghiên cứu, phát triển, cung ứng hoặc hợp tác cung ứng các giải pháp, dịch vụ ngân hàng mới dựa trên ứng dụng công nghệ, mô hình kinh doanh đổi mới sáng tạo; cho phép các TCTD, công ty Fintech được thử nghiệm các giải pháp Fintech mà quy định pháp lý hiện hành chưa hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho việc triển khai, áp dụng trực tiếp trong một môi trường có kiểm soát đặt dưới sự giám sát thường xuyên, liên tục của cơ quan quản lý, hoạt động thử nghiệm chịu giới hạn về phạm vi, quy mô, thời gian thử nghiệm và có biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro phát sinh.
Nghị định được xây dựng dựa trên một số quan điểm, nguyên tắc định hướng. Cụ thể, đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng, ban hành và triển khai vận hành Cơ chế thử nghiệm sau khi Nghị định được Chính phủ ban hành; bám sát chủ trương của Đảng và Nhà nước về thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 4.0, các mô hình kinh doanh khởi nghiệp sáng tạo; cân bằng giữa thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, với đảm bảo ổn định tài chính, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, an ninh mạng, phòng ngừa, hạn chế rủi ro phát sinh; đảm bảo cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các nhóm đối tượng khác nhau (TCTD, các công ty Fintech); đảm bảo tuân thủ các điều ước, cam kết quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên tham gia.
3 giải pháp Fintech trong lĩnh vực ngân hàng được phép thử nghiệm
Dự thảo Nghị định được thiết kế theo Chương, Mục, Điều, khoản, điểm (5 Chương, 24 Điều).
Một trong những nội dung cơ bản của Nghị định là các giải pháp Fintech trong lĩnh vực ngân hàng được phép thử nghiệm tại Cơ chế thử nghiệm. Căn cứ thực tiễn khảo sát, đánh giá thực trạng các lĩnh vực hoạt động của các công ty Fintech tại Việt Nam và qua rà soát các quy định pháp lý hiện hành, tại Dự thảo Nghị định, NHNN đã rà soát, phân loại và đề xuất lựa chọn 3 giải pháp Fintech thử nghiệm có tiềm năng và nhu cầu ở Việt Nam, phù hợp với trình độ phát triển và năng lực quản lý của Việt Nam, bao gồm: Chấm điểm tín dụng; Chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API); Cho vay ngang hàng (P2P Lending).
Về điều kiện và tiêu chí tham gia Cơ chế thử nghiệm, theo cơ quan soạn thảo, Dự thảo Nghị định được thiết kế theo hướng chỉ đưa ra các tiêu chí khung, có tính nguyên tắc và thống nhất chung áp dụng đối với các giải pháp tham gia Cơ chế thử nghiệm. Tuy nhiên, điều kiện để tham gia Cơ chế thử nghiệm của các tổ chức là khác nhau, cụ thể: Dự thảo Nghị định không áp dụng quy định điều kiện tham gia Cơ chế thử nghiệm với đối tượng là TCTD do các TCTD trong quá trình thành lập và hoạt động đã phải đáp ứng các điều kiện cụ thể, chặt chẽ; Dự thảo Nghị định quy định điều kiện để tham gia Cơ chế thử nghiệm đối với Công ty Fintech theo hai nhóm: điều kiện áp dụng cho Công ty Fintech đăng ký tham gia thử nghiệm giải pháp chấm điểm tín dụng và chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API), không bao gồm giải pháp cho vay ngang hàng và điều kiện áp dụng cho Công ty Fintech là Công ty cho vay ngang hàng.
Cơ chế thử nghiệm không phải là cơ chế bắt buộc mà tùy thuộc vào nhu cầu của doanh nghiệp, tuy nhiên, đối với các tổ chức tham gia Cơ chế thử nghiệm sẽ đạt được những lợi ích to lớn trong dài hạn, tạo động lực để thu hút các tổ chức đăng ký tham gia.