Bước chuyển tư duy và chính sách mở đường
Thu hút FDI: Góc nhìn từ người dẫn đầu | |
Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký giảm mạnh, song vốn thực hiện tăng 10,5% |
Một ngày giáp Tết Dương lịch 2018, trên tầng 19 của toà cao ốc hiện đại giữa trung tâm Thủ đô Hà Nội, GS-TS. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài quây quần bên những người bạn bè, đồng nghiệp thân tín đã gắn bó với ông nhiều chục năm.
Họ cùng nhau ôn lại những kỷ niệm không thể quên trong suốt sự nghiệp gắn liền với thu hút đầu tư nước ngoài của GS. Nguyễn Mại, từ khi ông còn là người phụ trách công tác quản lý nhà nước cho đến khi đại diện tiếng nói của cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 2017, cũng là mốc đánh dấu tròn 30 năm Việt Nam thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Quan điểm thu hút FDI đã chuyển biến từ chỗ tạo mọi điều kiện thuận lợi đến thu hút có chọn lọc |
Nhìn lại để bước tiếp
Trong suốt 30 năm qua, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đồng hành cùng công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế của đất nước, tạo động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Từ xuất phát điểm hết sức mới mẻ và xa lạ, khu vực FDI đã trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. GS. Nguyễn Mại khẳng định, nếu không có FDI, nền kinh tế Việt Nam không thể có được diện mạo, quy mô và trình độ phát triển như ngày nay.
Tuy nhiên, ít ai biết được rằng để có được sự đồng thuận trong chủ trương mở cửa chào đón nhà đầu tư nước ngoài, những người đặt nền móng như ông đã trải qua nhiều tranh cãi nảy lửa. Ngay từ những năm đầu 1980, lực cản lớn nhất đối với đầu tư nước ngoài vẫn là tư duy, nhận thức. Nhiều ý kiến cho rằng nếu thu hút FDI thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ chi phối hết nền kinh tế Việt Nam.
Ông Mại nhớ lại một câu chuyện khó quên. Sau khi cấp phép xây dựng Khu công nghiệp Nomura (Hải Phòng) vào năm 1994, là khu công nghiệp có vốn Nhật Bản đầu tiên tại Việt Nam, một vị sĩ quan cao cấp trong quân đội thời kỳ đó cho rằng việc thành lập khu công nghiệp này thể hiện sự mất cảnh giác của chúng ta. Vị này đặt vấn đề, Khu công nghiệp Nomura nằm ngay trên đường Quốc lộ 5, là tuyến đường huyết mạch, nếu cho nhà đầu tư án ngữ ở đó thì liệu chúng ta có đảm bảo được về vấn đề an ninh quốc phòng?!
Câu hỏi này đã được thực tế trả lời. Đến nay sau hơn 20 năm tồn tại và phát triển, Khu công nghiệp Nomura luôn được lãnh đạo TP. Hải Phòng đánh giá cao nhờ các thành tựu tạo cơ hội việc làm cho hàng chục nghìn lao động trong và ngoài thành phố, đóng góp vào mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng thành phố ngày càng giàu đẹp.
“Trong cuộc đời làm lãnh đạo quản lý, có những kỷ niệm đời thường thôi nhưng luôn dạy tôi trong công việc có lúc phải xử lý theo tình người. Chúng ta phải có cách nhìn nhân văn mới giải quyết được vấn đề, còn cứ áp cách làm hành chính, máy móc thì sẽ không thể thành công”, ông Mại bộc bạch.
Là 1 trong 4 người đầu tiên đặt nền móng pháp lý cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, GS. Lưu Văn Đạt, Trưởng Tiểu ban soạn thảo Luật Đầu tư nước ngoài 1987 cũng đánh giá, lực cản tư duy vào thời kỳ đó đã hạn chế rất nhiều đối với việc thu hút đầu tư.
Ông nhớ lại, chính sách đối với kinh tế tư nhân nói chung của chúng ta chuyển biến rất chậm, cho nên thái độ với đầu tư nước ngoài cũng vậy. Trong quá trình soạn thảo luật và thuyết phục những người có thẩm quyền, có ý kiến nói, mình hy sinh xương máu để giành độc lập chủ quyền, bây giờ lại mở cửa cho người ta, thế có phải là bao nhiêu công lao đổ sông đổ biển hết.
“Vì vậy chúng tôi lại phải thuyết phục, rằng quân đội là ta, chính quyền là ta, nhà đầu tư vào thì tài sản của họ ở trên đất ta, vậy thì ta vẫn là người quản lý. Phải dùng lập luận đó chúng tôi mới có thể vượt qua được các cuộc tranh luận nảy lửa”, GS. Lưu Văn Đạt hồi tưởng lại.
Mặc dù gặp phải nhiều lực cản về tư duy, nhận thức, song các quan điểm tiến bộ, đổi mới của những người đứng đầu đã dần thắng thế. Bên cạnh đó, bối cảnh nền kinh tế những năm đầu thời kỳ đổi mới vô cùng khó khăn, chúng ta khát vốn và buộc phải nghĩ đến nguồn lực nước ngoài. Đó là những động lực thúc đẩy để ngay sau đổi mới, một trong những dự luật đầu tiên được xây dựng tại Việt Nam là Luật Đầu tư nước ngoài.
GS. Nguyễn Mại cho biết, chỉ sau khoảng 6 tháng chuẩn bị, luật được chính thức thông qua vào ngày 29/12/1987. Khi đó, thế giới bình luận đây là một trong các đạo luật về đầu tư nước ngoài hấp dẫn nhất trong khu vực. Đó là bởi Luật Đầu tư nước ngoài 1987 được xây dựng dựa trên sự học hỏi kinh nghiệm từ 18 luật tương tự của các quốc gia khác và đều học hỏi, lấy lại những quy định cởi mở, tiến bộ nhất.
Ông Mại dẫn chứng, khi đó các nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia chỉ mở cửa dần dần, giới hạn đầu tư của nước ngoài là 49%, còn Việt Nam thì ngay lập tức mở cửa hết mức, chấp nhận doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, chỉ giới hạn tỷ lệ góp vốn tối thiểu. Chưa kể còn hàng loạt chính sách ưu đãi đầu tư khác được thực hiện. Cùng với đó là Ủyban Nhà nước về Hợp tác đầu tư (SCCI) được thành lập và giao nhiệm vụ là đầu mối quản lý các hoạt động về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đây là một ủy ban liên bộ, đầy đủ thẩm quyền trong tay để thực hiện phê duyệt dự án rất nhanh, khi cần thiết có thể trình thẳng lên Thủ tướng. Các chính sách, cơ chế thông thoáng này đã mở đường cho những làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Thiết kế lại động lực trước bối cảnh mới
Sau 30 năm chính thức vào Việt Nam, khu vực FDI đã hiện diện trên toàn bộ 63 tỉnh và thành phố của nước ta, với 24.397 dự án của 128 quốc gia và vùng lãnh thổ, vốn đăng ký còn hiệu lực đạt 312,9 tỷ USD, vốn thực hiện hơn 169 tỷ USD. Khu vực FDI đã chứng minh là động lực tăng trưởng ổn định. Các số liệu thống kê cũng cho thấy, quy mô nền kinh tế Việt Nam đã lớn hơn gấp nhiều lần, trong đó khu vực FDI góp phần ngày càng nhiều hơn về vốn đầu tư, thu ngân sách nhà nước, kim ngạch xuất nhập khẩu, tạo việc làm…
GS. Nguyễn Mại đánh giá, “trong giai đoạn 1996-2000, tăng trưởng bình quân của Việt Nam đạt 8,6%, thì riêng khu vực FDI góp 3,6% còn lại đầu tư trong nước là 5%. Bây giờ tỷ lệ vẫn tương đương như vậy”. Tuy nhiên thành tựu quan trọng hơn là FDI đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Cụ thể là năm 2017 vừa qua, lần đầu tiên kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vượt 400 tỷ USD. Những lợi ích mà FDI mang lại đối với nền kinh tế Việt Nam sau 30 năm là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, cùng với đó cũng là những mặt trái đang đặt cơ quan quản lý trước bài toán phải thiết kế lại chính sách thu hút dòng vốn này.
Là người giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong 2 nhiệm kỳ và theo dõi hoạt động đầu tư nước ngoài ngay từ những ngày đầu, nguyên Bộ trưởng Võ Hồng Phúc tiếc nuối, đầu tư từ các nước phát triển có nền công nghiệp tiên tiến như Hoa Kỳ, các quốc gia châu Âu… vẫn còn quá ít.
Bên cạnh đó, công tác quản lý FDI chưa chặt chẽ dẫn đến việc hình thức liên doanh quá ít trong khi hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm áp đảo, vì vậy không tạo được ràng buộc liên kết, chuyển giao công nghệ cho DN Việt Nam. Vấn đề khác là cơ cấu đầu tư chưa hợp lý khiến một số ngành công nghiệp quan trọng mà Việt Nam kỳ vọng dựa vào FDI để lớn lên, thì tới nay gần như thất bại. Cùng với đó là các vấn đề chưa hết tính thời sự như chuyển giá, ô nhiễm môi trường…
Cùng chung trăn trở về những mục tiêu chưa đạt được trong thu hút FDI, ông Bùi Quang Vinh, thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư khuyến nghị, đã đến lúc phải siết chặt lại những điều kiện, thủ tục về đầu tư nước ngoài để đạt được những mục tiêu đề ra.
Ông Vinh cho rằng phải có chế tài đủ mạnh để các DN FDI thực hiện được tỷ lệ nội địa hoá, liên doanh với các DN trong nước. Bên cạnh đó, phải có quy định với các địa phương về những lĩnh vực khuyến khích và hạn chế đầu tư. Những lĩnh vực mà các DN Việt Nam có thể thực hiện hiệu quả thì tạo điều kiện cho đầu tư trong nước bằng các chính sách ưu đãi hợp lý, công bằng…
Bối cảnh mới đang “đặt hàng” cho các nhà hoạch định chính sách những yêu cầu mới. Sau 30 năm, quan điểm thu hút FDI đã chuyển biến từ chỗ tạo mọi điều kiện thuận lợi đến thu hút có chọn lọc và phát huy quyền được lựa chọn. Dù có khác nhau, song các quan điểm này đều nhằm thiết kế FDI trở thành động lực quan trọng, hiệu quả trong phát triển kinh tế.