Chỉ số kinh tế:
Ngày 5/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.151 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.944/26.358 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Dựng điều kiện kinh doanh cho NĐT nước ngoài: Lúng túng và nhiều phức tạp

Ngọc Khanh
Ngọc Khanh  - 
Khó đáp ứng hai điều kiện tạo thuận lợi tối đa và lựa chọn nhà đầu tư tốt nhất.
aa

Danh mục Điều kiện đầu tư kinh doanh áp dụng đối với NĐT nước ngoài trong 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện vẫn chưa được ban hành để đón đầu Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 1/7 vừa qua, như kỳ vọng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thực tế là danh mục này cũng khó có thể hoàn thiện trong một ngày gần đây, bởi theo đánh giá của Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài Đỗ Nhất Hoàng, đây là công việc “cực kỳ khó”.

Dựng điều kiện kinh doanh cho NĐT nước ngoài: Lúng túng và nhiều phức tạp
Xưởng sản xuất của Công ty KPF Vina - Hàn Quốc

Vướng mắc lớn nhất hiện nay tập trung ở việc thống nhất quy định về điều kiện kinh doanh đối với từng ngành nghề, trong trường hợp các điều ước quốc tế có quy định khác nhau.

Ông Hoàng phân tích, Việt Nam là nước tham gia đàm phán rất nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác từ song phương như Nhật Bản, Hàn Quốc... tới đa phương như EU, TPP, Liên minh hải quan... Trong mỗi FTA này lại có hướng thiết kế các ngành nghề kinh doanh có điều kiện khác nhau. Vì vậy việc thống nhất một danh mục điều kiện kinh doanh để không trái với các quy định trong từng FTA, đồng thời vẫn đảm bảo thu hút đầu tư, lại sàng lọc được NĐT có chất lượng, rõ ràng là điều không hề đơn giản.

Đơn cử như trong tư duy của Việt Nam thì đối với sản xuất không có hạn chế gì. Nhưng các điều ước quốc tế trong Asean lại có hạn chế với một số ngành nhất định. Hay như Hiệp định bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Nhật Bản thực hiện phương pháp chọn bỏ để xác định ngành kinh doanh có điều kiện, nhưng trong WTO lại dùng phương pháp chọn cho. Giờ trộn danh mục ngành nghề giữa 2 FTA này với nhau thế nào, đang là vướng mắc rất lớn.

Một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện qua rà soát trong thời gian tới chắc chắn sẽ có thay đổi ít nhiều so với hiện nay. Chẳng hạn kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm. DN bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài muốn lập chi nhánh ở Việt Nam phải có tổng tài sản tối thiểu tương đương 2 tỷ USD, đang hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ ít nhất 10 năm…

Đây là các điều kiện mà Việt Nam đơn phương đặt ra và đang áp dụng, song lại chưa được rà soát theo cam kết với các FTA mà Việt Nam đã và đang thực hiện. Do đó chưa thể biết được các điều kiện này có thể nới lỏng hơn, hay sẽ thắt chặt hơn hiện nay.

Hay như kinh doanh dịch vụ phẫu thuật thẩm mỹ, theo cam kết WTO, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp dịch vụ thông qua thành lập bệnh viện 100% vốn nước ngoài, bệnh viện liên doanh với đối tác Việt Nam hoặc thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh. Vốn đầu tư tối thiểu cho một bệnh viện là 20 triệu USD, bệnh xá đa khoa là 2 triệu USD. Hiện tại, Việt Nam lại chưa có các quy định về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực này. Trường hợp đưa ra danh mục điều kiện cho lĩnh vực này, thì cũng phải rà soát song song với các FTA khác nhau để xem các quy định có bị vênh hay không.

Theo rà soát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong danh mục 267 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định tại Luật Đầu tư, có 72 ngành nghề, pháp luật Việt Nam đã quy định về điều kiện đầu tư và kinh doanh; 46 ngành nghề điều ước quốc tế đã quy định điều kiện đầu tư áp dụng đối với NĐT nước ngoài; 128 ngành nghề chưa quy định điều kiện đầu tư đối với NĐT nước ngoài; 21 ngành nghề chưa quy định cả điều kiện đầu tư và điều kiện kinh doanh. Ngoài ra, còn có 35 ngành nghề trong điều ước quốc tế quy định hạn chế mở cửa thị trường đối với NĐT nước ngoài, nhưng pháp luật Việt Nam lại không hạn chế.

Theo ông Đỗ Nhất Hoàng, sở dĩ việc thống nhất danh mục điều kiện kinh doanh còn ì ạch là bởi qua tham vấn ý kiến, các bộ, ngành hiện nay chưa thống nhất về nguyên tắc áp dụng. Hiện đang có 2 luồng ý kiến khác nhau về vấn đề này.

Loại ý kiến thứ nhất đề nghị NĐT nước ngoài thuộc đối tượng điều chỉnh của các điều ước quốc tế được lựa chọn áp dụng quy định tại một trong các điều ước đó, nghĩa là trao toàn quyền tự do lựa chọn cho NĐT. Loại ý kiến thứ hai đề nghị không cho phép NĐT lựa chọn áp dụng điều ước quốc tế vì việc áp dụng này phải căn cứ vào quy định cụ thể của từng điều ước.

Quan điểm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là thực hiện theo loại ý kiến thứ nhất nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho NĐT, thể hiện thiện chí của Việt Nam trong việc thu hút FDI. Bên cạnh đó, pháp luật đầu tư cũng như thực tiễn quản lý đều dành cho NĐT quyền được lựa chọn điều kiện đầu tư thuận lợi trong trường hợp pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề.

Đồng tình với quan điểm trên, song TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương lưu ý, thống nhất danh mục điều kiện kinh doanh cho FDI mới chỉ giải quyết được phần nổi của vấn đề.

Ông Thành cho rằng, trong một số lĩnh vực có độ nhạy cảm cao như tài chính ngân hàng, hay lĩnh vực đòi hỏi kỹ năng cao như y tế… thì nguyên tắc mở cửa phải chọn đối tác tốt nhất để “chơi”. Do đó việc thống nhất danh mục điều kiện kinh doanh trong từng ngành nghề không chỉ đơn thuần là tạo điều kiện thuận lợi nhất để NĐT vào Việt Nam, mà còn phải sàng lọc được những NĐT tốt nhất.

Đây là vấn đề phức tạp hơn mà trong quá trình xây dựng danh mục điều kiện kinh doanh cho FDI hiện nay còn chưa được lưu ý. Nếu chỉ tập trung vào tạo mọi thuận lợi cho NĐT, thì mục tiêu thu hút FDI chất lượng cao sẽ khó mà đáp ứng được.

Ngọc Khanh

Tin liên quan

Tin khác

Nông nghiệp tăng tốc xuất khẩu

Nông nghiệp tăng tốc xuất khẩu

Biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ lên nông nghiệp Việt Nam, từ miền núi đến đồng bằng. Trong bối cảnh khó khăn chồng chất, ngành nông nghiệp và môi trường vẫn ghi nhận tín hiệu phục hồi, đặc biệt ở xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản.
Đột phá hạ tầng và chuyển đổi số cho logistics Việt Nam

Đột phá hạ tầng và chuyển đổi số cho logistics Việt Nam

Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2229/QĐ-TTg ngày 09/10/2025. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một chiến lược đồng bộ, toàn diện và dài hạn về logistics, đánh dấu bước ngoặt lớn của ngành trong giai đoạn mới.
TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu

TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Ngày 4/12/2025, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ TP.HCM (HASI) và Viện Quản trị Chính sách và Chiến lược phát triển (IPADS) tổ chức Diễn đàn “Thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu” tại Trung tâm Triển lãm Quốc tế WTC Expo, phường Bình Dương, TP.HCM.
Tuần lễ kết nối giao thương giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại

Tuần lễ kết nối giao thương giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại

Ngày 4/12/2025, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp Công ty TNHH AEON Việt Nam tổ chức Lễ khai mạc “Tuần lễ kết nối giao thương và không gian giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại AEON Việt Nam năm 2025”. Sự kiện diễn ra tại AEON MALL Bình Tân, nằm trong chuỗi hoạt động xúc tiến thương mại thường niên hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng đầu ra và tiếp cận hệ thống phân phối hiện đại.
VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

Sau một năm chính thức có hiệu lực, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Israel (VIFTA) đang dần định hình vai trò là một cấu phần quan trọng trong mạng lưới hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Với mức độ cam kết sâu, thị trường tiềm năng và cấu trúc kinh tế bổ trợ, VIFTA không chỉ mở ra cơ hội xuất khẩu mà còn đặt ra yêu cầu mới về cải cách thể chế, nâng cao năng lực doanh nghiệp và hoàn thiện hệ sinh thái hỗ trợ hội nhập.
VPBank là ngân hàng duy nhất nhận hai giải thưởng tại VLCA 2025

VPBank là ngân hàng duy nhất nhận hai giải thưởng tại VLCA 2025

VPBank giành hai giải thưởng “Top 10 Báo cáo Thường niên tốt nhất – Nhóm ngành Tài chính” và “Giải Ba Báo cáo Phát triển Bền vững – Nhóm ngành Tài chính” tại VLCA 2025. Đây là minh chứng cho nỗ lực không ngừng của VPBank trong việc nâng tầm quản trị doanh nghiệp, minh bạch thông tin và thực hành ESG, đồng thời khẳng định uy tín quốc tế, vị thế tiên phong và cam kết tạo giá trị bền vững cho cổ đông, khách hàng và cộng đồng.
Khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo của Bầu Hiển

Khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo của Bầu Hiển

Chuẩn bị tâm thế, tiềm lực và chiến lược từ sớm, từ xa, nên khi bước vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, T&T Group nhanh chóng nổi lên như một “ông lớn” với loạt dự án tầm quốc gia, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, góp sức cùng Chính phủ thực hiện thành công cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Với riêng Nhà Sáng lập, Chủ tịch Điều hành Đỗ Quang Hiển, làm năng lượng sạch không phải xin dự án chỉ để kiếm lợi nhuận. Lớn hơn, đó còn là khát vọng làm ra những giá trị bền vững cho xã hội, công đồng, đất nước.
Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới

Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới

Việt Nam đang hướng tới trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 dựa vào năng lực đổi mới sáng tạo và sức mạnh của nền kinh tế số. Trong bối cảnh đó, tài sản vô hình, từ quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bí quyết công nghệ đến dữ liệu và phần mềm chính là “mỏ vàng” của thời đại mới.
Logistics xanh - lời giải cho sức ép chi phí và tiêu chuẩn bền vững

Logistics xanh - lời giải cho sức ép chi phí và tiêu chuẩn bền vững

Việt Nam đang đối mặt với bài toán kép: vừa phải kéo giảm chi phí logistics vốn đang ở mức cao hàng đầu khu vực, vừa phải đáp ứng các tiêu chuẩn xanh hóa ngày càng ngặt nghèo từ các thị trường xuất khẩu chủ lực. Trong bối cảnh đó, phát triển logistics xanh không chỉ là xu thế mang tính tất yếu, mà đang trở thành lời giải khả thi nhất để hóa giải cùng lúc hai áp lực lớn.
[Infographic] Từ 1/1/2026, lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%

[Infographic] Từ 1/1/2026, lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%

Theo quy định tại Nghị định số 293/2025/NĐ-CP, từ 1/1/2026 mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động tăng từ 250.000 đồng - 350.000 đồng/tháng so với quy định tại Nghị định 74/2024/NĐ-CP.