Ngành cá tra trước cơ hội lớn
Ngành cá tra Việt Nam: Hướng đến mục tiêu xuất khẩu 2,4 tỷ USD | |
Cá tra - kỳ vọng tăng trưởng mạnh |
Giá cá tra có xu hướng giảm trong quý II, nhưng sản lượng vẫn tăng khá cao |
Tính đến thời điểm này, nhiều DN ngành cá sau một thời gian tích lũy vốn, công nghệ đã đầu tư nghiên cứu và sản xuất các mặt hàng giá trị gia tăng. Điển hình, Vĩnh Hoàn (VHC) với các sản phẩm cá tra ăn liền, nấu liền và collagen - gelatin được ưa chuộng ở Nhật, Mỹ và châu Âu. Một số DN khác như Nam Việt cũng với những sản phẩm surimi và collagen sắp được tung ra thị trường, IDI cũng đang nghiên cứu cá tra xông khói, cá tra đóng hộp và xúc xích cá tra.
Sự tăng trưởng vượt bậc của ngành xuất phát từ nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng ở thời điểm hiện tại. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội chế biến Thủy sản Việt Nam (Vasep), dân số thế giới sẽ vượt 8,5 tỷ người vào năm 2030, trong khi đó ngành đánh bắt cá từ tự nhiên sẽ không tăng trưởng để đảm bảo đa dạng sinh học. Tỷ lệ cá nuôi trong tổng nguồn cung cấp cá sẽ tăng từ 47% trong năm 2016 lên 54% vào năm 2030.
Thực tế đó đã mở ra nhiều cơ hội cho ngành nuôi trồng cá tra trong nước, nhất là khi khu vực ĐBSCL có điều kiện sinh thái thuận lợi cho việc nuôi cá tra quy mô lớn. Điều kiện tự nhiên kết hợp với công nghệ canh tác tiên tiến cho ra sản phẩm cá tra thịt trắng, lựa chọn yêu thích của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, các nhà sản xuất cá tra khác như: Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan và Indonesia đang sản xuất cá tra thịt vàng có giá trị thấp và khối lượng chỉ đủ đáp ứng cho nhu cầu nội địa các quốc gia này.
Song, một lợi thế rất lớn cho các DN cá Việt Nam khi các rào cản thương mại vào thị trường Mỹ đã giảm bớt rất nhiều, sau khi các cuộc làm việc của đại diện Mỹ đã đến khảo sát ở Việt Nam trong những năm qua.
Ngoài ra, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) được ký kết đã mở ra cơ hội lớn cho ngành cá của Việt Nam. Theo ước tính của Bộ Công thương, sau khi EVFTA được áp dụng, thuế nhập khẩu riêng đối với cá tra vào EU sẽ được giảm từ mức hiện tại 5,5% xuống 0% trong 3 năm đối với cá philê đông lạnh và từ 7% xuống 0% trong 7 năm đối với cá phi-lê đã chế biến. Cộng thêm nhu cầu về cá tra tại EU được kỳ vọng tăng mạnh 20% trong năm 2020 cơ sở tốt để các DN cá bứt phá.
Việt Nam, một trong những quốc gia xuất khẩu cá tra lớn trên thị trường thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, để phát triển bền vững ngành cá tra xuất khẩu, hoạt động của ngành cá tra phải cải thiện rất nhiều. Trong đó đối với các DN trong ngành chính là chất lượng giống suy giảm gây ra tình trạng thiếu cá giống.
Theo một lãnh đạo Bộ Công thương trong nhiều năm, giống cá tra do các hộ nông dân tự sản xuất, nhiều hộ lai cận huyết, ép cá bố mẹ đẻ non và đẻ nhiều lần trong năm dẫn đến hiện tượng thoái hóa giống. Con giống yếu thường chết nhiều khi nuôi thương phẩm, kéo theo hao phí thức ăn và thuốc thú y tăng. Tình trạng thiếu hụt đã đẩy giá cá giống tăng vọt trong năm 2017-2018. Chất lượng thành phẩm cũng bị ảnh hưởng nếu cá nguyên liệu dị hình, màu thịt xấu và tỷ lệ thu hồi phi-lê giảm.
Câu chuyện khi giá xuất khẩu tốt thì nông dân đổ xô mở rộng diện tích nuôi cá tra, khi giá cá rớt lại bỏ ao từ đó kéo theo hệ lụy rất lớn là các DN chế biến không chủ động được nguồn nguyên liệu cho hàng xuất khẩu.
Ví như, VHC những năm qua đổ vào nghiên cứu phát triển sản phẩm cá và liên quan đến cá chất lượng cao đáp ứng cho thị trường xuất khẩu đa dạng. Theo đó, 99% cá tra xuất khẩu của công ty này là hàng đông lạnh chế biến thô (phi-lê, cắt khúc, cắt miếng). Các sản phẩm cá tra giá trị gia tăng (hàng tẩm ướp, hàng nấu liền, ăn liền) và các sản phẩm giá trị gia tăng chế biến từ phụ phẩm của quá trình phi-lê cá như surimi, collagen và gelatin lại rất ít do hạn chế về vốn đầu tư cho công nghệ sản xuất.
Trong khi các sản phẩm này đang rất được ưa chuộng tại các thị trường cao cấp như Mỹ và châu Âu và trong ngành dược mỹ phẩm, các DN lại đang để ngỏ một phân khúc sản phẩm có tiềm năng mang lại lợi nhuận rất cao.
Từ phía DN, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty trong việc thu mua nguyên liệu, phá giá xuất khẩu cũng là một vấn đề lớn của ngành cá tra. Khi các DN Việt cạnh tranh không lành mạnh thì hậu quả là uy tín của toàn ngành bị suy giảm. Điều này cho thấy các DN ngành cá muốn phát triển tốt hơn cần có sự thay đổi trong tư duy kinh doanh cũng như phải tập trung đầu tư phát triển sản phẩm chất lượng hơn nữa trong tương lai.
Theo Tổng cục Thống kê, sản lượng thủy sản quý II/2019 ước tính đạt 2.311,5 nghìn tấn, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1.734,1 nghìn tấn, tăng 5,8%; tôm đạt 261,3 nghìn tấn, tăng 9%; thủy sản khác đạt 316,1 nghìn tấn, tăng 7,6%. Tính chung 6 tháng đầu năm nay, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 3.780,5 nghìn tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 2.835 nghìn tấn, tăng 5,6%; tôm đạt 397,8 nghìn tấn, tăng 7,7%; thủy sản khác đạt 547,7 nghìn tấn, tăng 5,8%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng 6 tháng đạt 1.921,2 nghìn tấn, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1.393,6 nghìn tấn, tăng 5,9%; tôm đạt 320,3 nghìn tấn, tăng 9,8%; thủy sản khác đạt 207,3 nghìn tấn, tăng 7%. Sản xuất và tiêu thụ cá tra trong quý I/2019 gặp nhiều thuận lợi hơn so với quý II do giá cả ổn định và duy trì ở mức cao, từ tháng 5 đến nay giá cá tra nguyên liệu có xu hướng giảm nhưng sản lượng cá tra quý II vẫn tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng cá tra quý II ước tính đạt 391,7 nghìn tấn, tăng 7,2%. |