Từ khoá chiến lược của nhà băng
Đi nhanh và xa hơn với nền tảng hợp kênh | |
TPBank phát hành thiết bị nhận mã bảo mật OTP mỏng nhất thế giới | |
Hệ sinh thái Fintech: Cái bắt tay cho quan hệ win-win |
Thử gõ “Digital Banking” (NH số) trên công cụ tìm kiếm Google, chỉ mất 0,55 giây chúng ta nhận được khoảng hơn 6 triệu kết quả. Đây cũng là một trong những điểm được giới NH nhắc tới nhiều và nhận định sẽ lên ngôi trong năm 2018.
Thực ra, không phải gần đây vấn đề này mới được biết tới, mà từ năm 2017 thậm chí nhiều năm trước, không ít nhà băng đã bắt đầu triển khai xu hướng này dưới hình thức tự thực hiện hoặc kết hợp với các công ty công nghệ tài chính. Ở thời điểm hiện tại, NH số được nhiều NH lựa chọn là mục tiêu phát triển.
NH số đúng nghĩa là NH đủ tốt để đáp ứng nhu cầu tài chính diễn ra hàng ngày của khách hàng |
Ngay trong những ngày đầu năm 2018, TPBank nhận liên tiếp 3 giải thưởng quốc tế uy tín về NH số. Triển khai dự án chiến lược giai đoạn 2017 – 2021. MB cũng đang thúc đẩy nhanh 4 chuyển dịch trọng tâm của NH, trong đó có chuyển dịch về NH số. Ngày 19/3 vừa qua, tại ĐHCĐ VPBank, lãnh đạo NH này cũng cho biết dự kiến trong nửa đầu năm 2018 sẽ công bố một thương hiệu mới về NH số đã được đầu tư từ năm 2017.
VietinBank mới đây cũng đã chính thức thông báo về Thỏa thuận Hợp tác với công ty Fintech - Opportunity Network (ON) để cung ứng Dịch vụ Kết nối khách hàng trên nền tảng số hóa. Từ trong năm 2017, nhiều NH cũng đã chính thức chuyển đổi thành công hệ thống Corebanking mới.
Nhiều NH Việt đã bắt đầu đưa ra những giải pháp mới về thanh toán QR Code, hay những dịch vụ sử dụng dịch vụ của Fintech giúp tăng thêm trải nghiệm cho khách hàng khi có thể thực hiện mở tài khoản, thẻ tín dụng không cần tới giao dịch trực tiếp. Điều này đã giúp NH tiếp cận nhanh hơn tới cả những nhóm khách hàng thậm chí trước nay chưa tiếp cận được.
Lợi ích có thể nhìn thấy được là thế, nhưng để thực hiện mục tiêu chuyển dịch sang NH số, các nhà băng phải tổ chức bộ máy và cách thức quản lý chiến lược NH số, từ đó phát triển nguồn nhân lực phù hợp. Đi cùng với đó là quản lý truyền thông, thông tin trên mạng xã hội; nâng cấp nền tảng CNTT, có kế hoạch quản lý rủi ro an ninh mạng, phân loại khách hàng...
Ông Khổng Vũ Vinh, thuộc Khối Nghiên cứu chiến lược và Quan hệ kinh doanh quốc tế LienVietPostBank có nêu một thí dụ tại Ấn Độ, khi quốc gia này loại bỏ đồng tiền 500 reupee và 1.000 rupee (vốn chiếm 86% tổng lượng tiền lưu thông trong hệ thống) từ tháng 11/2016 để người dân tăng cường sử dụng ví điện tử. Hay như Nigieria thu phí gửi tiết kiệm 1,5% và rút tiền 2,0% với các giao dịch từ 500.000 đến 1 triệu Naira.
Nói điều này để thấy ngay ở những quốc gia đang phát triển, điều kiện kinh tế còn hạn hẹp thì những sáng kiến, chương trình hành động quốc gia nhằm giảm thiểu số lượng sử dụng tiền mặt như vậy cũng sẽ là điều kiện để cho các NH triển khai thuận lợi hơn mục tiêu tiến tới NH số.
Chia sẻ sâu thêm xu hướng này, TS. Nguyễn Thị Mai Hương, ĐH Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh nhận thấy: Hoạt động mô hình của NH số không chỉ căn cứ bởi số chi nhánh, ứng dụng hoặc trải nghiệm người dùng vì việc khởi chạy ứng dụng dành cho thiết bị di động mới không nhất thiết phải chuyển một NH truyền thống sang một NH kỹ thuật số. Do đó, xác định mô hình cho Digital Banking dự kiến sẽ đổi mới kỹ thuật số của NH khi cung cấp trải nghiệm liền mạch cho cá nhân, đáp ứng mong muốn tất cả mọi người - đây là vấn đề then chốt vì nó có sức lan toả đến các nhân tố ảnh hưởng liên quan và tác động vào sự đảm bảo thành công khi triển khai số.
“Một NH số thực sự là tối ưu hoá sự tương tác khách hàng, sản phẩm, quy trình và dữ liệu về công nghệ số. Do đó, việc định vị mô hình Digital Banking của NH cũng đồng nghĩa với việc thiết kế thương hiệu của đơn vị. Và công việc này tác động rất rõ đến loại công nghệ, nguồn tài chính, tiêu chí xét đoán khách hàng…”, bà Hương nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Hưng, Tổng Giám đốc TPBank cho biết việc triển khai các sản phẩm điện tử - sản phẩm được phân phối trên kênh website, ứng dụng điện thoại khác biệt hoàn toàn với kênh truyền thống. Chính bởi vậy, những quy định của tiền gửi tiết kiệm truyền thống, đặc biệt là thẻ tiết kiệm đã dần không còn phù hợp trong thời đại công nghệ mới. Do đó, cần có quy chế mới về tiền gửi tiết kiệm dưới hình thức tiết kiệm điện tử nhằm hướng dẫn, quản lý hoạt động của các NH.
Ví dụ cần cân nhắc triển vọng của những phương án xác nhận trên các kênh trực tuyến và số hoá các chứng từ, tài liệu liên quan tới việc đăng ký mới và tất toán tài khoản tiết kiệm. Đơn cử như thẻ tiết kiệm có thể được cấp và lưu trữ dưới dạng thẻ điện tử, giúp dễ dàng truy cập cũng như đối chiếu thông tin; sử dụng chữ ký số, QR Code… để xác thực văn bản.
Mục tiêu của NH số là tối đa hoá những hoạt động, dịch vụ NH truyền thống. Bởi thế, ông Đặng Đức Huy, Phó Giám đốc Khối NH Bán lẻ SCB nhận thấy, một trong những điều sẽ thay đổi mạnh mẽ là quy trình làm việc: “Nhiều quy trình trước đây có 10 bước thì nay sẽ rút lại chỉ còn 3 bước. Đặc biệt là những bước liên quan tới photocopy, scan, công chứng sao y bản chính, phát chuyển nhanh các bản gốc tài liệu… sẽ không còn nữa. Các hệ thống ứng dụng trong nội bộ sẽ tương tác tối đa nhằm tạo ra chuỗi liên kết thông tin liên tục, đảm bảo truy cập thông tin đầy đủ và nhanh chóng”.